Cách trung tâm Hà Nội 10km có một ngôi làng cổ cất giữ dấu tích Chăm Pa, từng đón Bác Hồ từ Chiến khu Việt Bắc trở về

Vân Phong

(Thị trường tài chính) - Ngày nay, làng vẫn còn lưu giữ nhiều dấu tích cổ khiến vùng đất này trở thành điểm đến lý tưởng cho những ai yêu văn hóa truyền thống.

Cách trung tâm Hà Nội chỉ hơn 10 cây số về phía Tây Bắc, có một vùng đất đứng lặng cùng thời gian: Làng cổ Phú Gia. Trải qua hàng trăm năm thay đổi địa danh và hành chính, nơi đây vẫn giữ được những lớp trầm tích văn hóa của một vùng quê Bắc Bộ cổ truyền.

Giữa nhịp sống đô thị hóa dồn dập, Phú Gia giống như một chiếc “hòm ký ức” mở ra chậm rãi, để ai đặt chân đến cũng nhận ra trong đó từng lớp lịch sử, từng bóng dáng những nền nếp của cha ông còn lặng lẽ gìn giữ.

Lần theo sử cũ tên gọi

Người dân trong làng cho biết, theo cuốn “Bản xã thần ký” do cụ Công Nghĩa Lẫm dịch, nguồn gốc sâu xa của làng này có từ thời nhà Đường đô hộ, khoảng thế kỷ VII, nhưng để trở thành làng Chăm là từ thời nhà Lý.

Cách trung tâm Hà Nội 10km có một ngôi làng cổ cất giữ dấu tích Chăm Pa, từng đón Bác Hồ từ Chiến khu Việt Bắc trở về - ảnh 1
Tam quan chùa Bà Già. Ảnh: Báo Dân Việt

Người Phú Gia thường nói về quê mình bằng giọng trầm kính: “Làng Gạ - làng Già - Phú Gia”, như thể chính tên gọi cũng kể một câu chuyện dài về sự chuyển mình của mảnh đất này qua nhiều thời đại. Tên Nôm làng Gạ xuất hiện sớm, gắn với vùng đất thấp ven sông Nhuệ, nơi người dân trồng lúa, nuôi trâu và dựng nên một xóm làng hiền hòa.

Cái tên Già hay Bà Già hương được lưu truyền trong dân gian theo nhiều cách giải thích khác nhau: Có người nói đó là âm đọc chệch theo khẩu ngữ; có người kể rằng vùng này từng thờ một vị nữ thần cao tuổi, nên dân gian quen gọi như vậy. Dù theo cách lý giải nào thì sự biến đổi đó cũng thể hiện dấu vết của thời gian, của ngôn ngữ và của tâm thức dân gian.

Đến triều Minh Mạng, khi triều đình chuẩn hóa hệ thống hành chính, vùng đất này được đặt tên là tổng Phú Gia có hàm nghĩa là “quê hương trù phú, ấm no”. Tên gọi ấy vừa mang tính điển chế, vừa gửi gắm mong muốn về sự sung túc, thịnh vượng của địa phương.

Cách trung tâm Hà Nội 10km có một ngôi làng cổ cất giữ dấu tích Chăm Pa, từng đón Bác Hồ từ Chiến khu Việt Bắc trở về - ảnh 2
Cổng đình làng Phú Gia. Ảnh: Internet

Hơn 2 thế kỷ sau, khi làng xã sáp nhập cùng tiến trình đô thị hóa của Hà Nội, cái tên Phú Gia vẫn còn vang lên như một ký ức cố định. Trong tâm trí người dân, Phú Gia không chỉ là một địa danh, mà còn là biểu tượng của cội rễ.

Không gian làng cổ qua từng nếp nhà, mái đình

Đặt chân vào Phú Gia hôm nay, người ta dễ dàng cảm nhận được âm hưởng cổ kính còn lưu lại trong cách sắp xếp đường làng, trong hàng tre xưa vẫn được gìn giữ, trong những bức tường gạch ong và mái ngói rêu phong. Lối đi lát gạch nghiêng vẫn còn thấy ở vài nếp nhà cổ, dẫn người ta đến đình làng Phú Gia - trung tâm tinh thần của cộng đồng cư dân từ hàng trăm năm trước.

Đình Phú Gia nằm ở trung tâm ngôi làng, là Di tích Lịch sử Quốc gia được xếp hạng năm 2001. Mái đình cong rêu phong, những cột lim bóng thời gian, cùng hai cây đa cổ thụ hơn 300 năm tuổi đứng song song như hai người canh giữ ký ức. Không xa đó là chùa Bà Già - nơi chứa đựng nhiều dấu tích Chăm rõ nét nhất còn lại trong làng cũng là Di tích Quốc gia được công nhận năm 1996.

Cách trung tâm Hà Nội 10km có một ngôi làng cổ cất giữ dấu tích Chăm Pa, từng đón Bác Hồ từ Chiến khu Việt Bắc trở về - ảnh 3
Bệ thờ Thành Hoàng làng với nhiều hiện vật lịch sử trân quý. Ảnh: Báo Dân Việt

Đình Phú Gia không đồ sộ như những công trình kiến trúc danh tiếng khác của vùng Bắc Bộ, nhưng lại ghi dấu sự tinh xảo qua từng vì kèo, đầu đao, qua các mảng chạm khắc hổ phù, hoa văn gỗ đã sẫm màu theo thời gian.

Người cao tuổi trong làng kể rằng đình từng là nơi diễn ra các cuộc họp bàn việc làng, hội làng ngày mồng Mười tháng Giêng và tháng Tám, nơi người dân cầu mùa, cầu bình an và tưởng nhớ những bậc tiền nhân. Trải qua nhiều biến động thời cuộc, đình vẫn giữ được sự uy nghiêm và được xem là “tâm điểm ký ức” của Phú Gia.

Bên cạnh đình là chùa Bà Già, hiện lên như một lớp trầm tích văn hóa, nơi mà các yếu tố Chăm không chỉ tồn tại trong kiến trúc mà còn trong những pho tượng, trong cách bố trí gian thờ.

Sư trụ trì kể rằng đôi phỗng đá đặt trước cổng chùa là báu vật đặc biệt. Mỗi pho cao khoảng 1m, tạc từ đá sa thạch, khuôn mặt vuông, mắt tròn, miệng rộng, môi dày, tai dài, tóc búi cao. Phần váy hông với dây buộc tạo thành nút là chi tiết mang phong cách Chăm cổ thường gặp ở Mỹ Sơn hay Trà Kiệu. Những nét nghệ thuật ấy là minh chứng sống động cho sự hội tụ văn hóa sâu sắc nơi Phú Gia.

Cách trung tâm Hà Nội 10km có một ngôi làng cổ cất giữ dấu tích Chăm Pa, từng đón Bác Hồ từ Chiến khu Việt Bắc trở về - ảnh 4
Dấu tích làng Chăm ở Phú Gia. Ảnh: Internet

Con người Phú Gia hiền hòa, bền bỉ và gìn giữ ký ức

Nhắc đến Phú Gia, người ta nhớ đến sự mến khách, chân tình của người dân nơi đây. Câu chuyện của họ luôn xoay quanh mảnh đất quê hương, quanh đình, chùa, giếng làng, quanh những gì đã nuôi dưỡng họ từ thuở nhỏ. Những cụ già tóc bạc vẫn ngồi trước cổng đình mỗi chiều, nhâm nhi chén trà xanh và kể về thời làng Gạ còn đầy tre trúc. Những người trung niên thì hồ hởi nói về việc bảo tồn di sản, muốn giữ lại giá trị truyền thống cho con cháu mai sau.

Đặc biệt, người dân Phú Gia tự hào vì làng quê của họ là nơi Bác Hồ và nhiều vị lãnh đạo cao cấp của Trung ương từng dừng chân hoạt động cách mạng trong những ngày tháng tiền Khởi nghĩa.

Đây là một trong những an toàn khu của Trung ương Đảng trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Từ năm 1941, nhà bà Công Thị Lùn, tức bà Hai Vẽ, trở thành nơi trú chân của nhiều lãnh đạo cấp cao như Tổng Bí thư Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Lê Đức Thọ, Hoàng Tùng… Tại căn nhà nhỏ này, Tổng Bí thư Trường Chinh đã soạn thảo nhiều văn kiện quan trọng, mà trong đó có “Đề cương văn hóa Việt Nam”.

Cách trung tâm Hà Nội 10km có một ngôi làng cổ cất giữ dấu tích Chăm Pa, từng đón Bác Hồ từ Chiến khu Việt Bắc trở về - ảnh 5
Nhà bà Nguyễn Thị An ở Phú Gia - nơi Bác Hồ ghé qua. Ảnh: Internet

Đặc biệt hơn cả là sự kiện tháng 8/1945, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh trên hành trình từ Chiến khu Việt Bắc về Hà Nội đã dừng chân tại nhà bà Nguyễn Thị An ở Phú Gia. Theo lời kể của ông Công Ngọc Dũng - cháu nội của bà An, đoàn cán bộ gồm 19 người cập bến đò Sũ vào buổi hoàng hôn ngày 23/8/1945. Trong số đó có một cụ già gầy gò, râu tóc bạc phơ, đôi mắt sáng và giọng nói hiền từ.

Suốt thời gian lưu lại, gia đình không hề biết rằng người ấy chính là lãnh tụ Hồ Chí Minh. Khi Bác và đoàn rời đi vào ngày 25/8, bà An chỉ coi đó là những người cán bộ cách mạng mà gia đình có vinh dự được đón tiếp.

Chỉ khi ngày 2/9/1945, bản Tuyên ngôn độc lập được đọc ở Ba Đình, cả gia đình mới linh cảm rằng người khách năm ấy rất có thể là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đến cuối năm 1946, khi Bác trở lại thăm làng và ghé thăm nhà, mọi nghi ngờ mới trở thành sự thật.

Ngôi nhà của bà An từ đó trở thành một phần quan trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam và được công nhận là Di tích Lịch sử Quốc gia năm 2021. Hiện nay, ngôi nhà cổ xây từ thời Pháp vẫn được bảo tồn nguyên vẹn, do ông Công Ngọc Dũng trông coi và đón khách tham quan.

Làng nghề - dấu ấn của một thời thịnh vượng

Phú Gia từng là vùng đất có truyền thống sản xuất nông nghiệp kết hợp nghề phụ. Theo ghi chép truyền miệng, người dân nơi đây nổi tiếng khéo tay trong nghề làm đồ tre nứa, đan lát và làm tương.

Cách trung tâm Hà Nội 10km có một ngôi làng cổ cất giữ dấu tích Chăm Pa, từng đón Bác Hồ từ Chiến khu Việt Bắc trở về - ảnh 6
Phú Gia từng là vùng đất có truyền thống sản xuất đồ tre nứa, đan lát và làm tương.

Những sản phẩm của làng từng được mang ra chợ Vẽ, chợ Cầu Diễn để bán, trở thành nguồn thu ổn định cho nhiều gia đình. Dù đến nay nghề truyền thống không còn thịnh như trước, nhưng vài hộ vẫn giữ nghề như một cách trân trọng cội nguồn.

Tiếng chày giã gạo, tiếng kéo cưa, tiếng những mẻ tương ủ trong chum đất… tất cả hợp thành âm thanh đặc trưng của Phú Gia thuở trước. Mùi rơm rạ, mùi khói bếp, mùi gỗ mới còn gợi lại một thời vàng son khi Phú Gia là một làng nông - thủ công điển hình của Bắc Bộ.

Ngày nay, Phú Gia vẫn giữ được nhiều nét cổ kính mà nhiều làng khác đã mất đi trong cơn sóng đô thị hóa. Những con đường bê tông được mở rộng nhưng không phá vỡ hoàn toàn cấu trúc làng truyền thống. Nhiều hộ dân khi xây nhà mới vẫn giữ lại bức tường đá ong cũ, giếng cổ hoặc khoảng sân lát gạch để làm “ký ức sống” trong không gian hiện đại.

Phú Gia dường như hấp dẫn người ta không phải vì sự hoành tráng, mà bởi sự bền bỉ, âm thầm trong việc giữ gìn nét quê. Ở đây, con người sống chậm hơn đôi chút, để lắng nghe tiếng chim, để cảm nhận mùi đất, để nhớ về một thời đã xa mà vẫn còn nguyên hơi thở.

Trong một Hà Nội đang đổi thay từng ngày, việc Phú Gia vẫn còn lưu giữ nhiều dấu tích cổ khiến vùng đất này trở thành điểm tựa tinh thần cho những ai yêu văn hóa truyền thống. Đó không chỉ là câu chuyện của một làng cổ, mà là câu chuyện về sự kiên trì bảo vệ di sản - điều mà không phải nơi nào cũng làm được.

Tin tức

Tin đọc nhiều