Nhà văn duy nhất của Việt Nam có 3 người con rể đều mang hàm tướng, từng đảm nhận nhiều chức vụ quan trọng
(Thị trường tài chính) - Cuộc đời và gia đình ông là tấm gương sáng về truyền thống hiếu học, tinh thần yêu nước và sự gắn bó giữa văn hóa – trí thức – cách mạng.
Tài năng xuất chúng trên nhiều mặt trận
Giáo sư, nhà nghiên cứu, nhà văn Đặng Thai Mai sinh ngày 25/12/1902 tại làng Lương Điền, huyện Thanh Chương (cũ), tỉnh Nghệ An, trong một gia đình nhà nho yêu nước. Thừa hưởng nền tảng tri thức và văn hóa gia giáo từ hai bên nội – ngoại, cùng tư chất thông minh, chăm chỉ học hành, Đặng Thai Mai sớm hình thành lòng yêu nước và tinh thần dân tộc.
Những năm học tại Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương (1925–1928), ông tích cực tham gia phong trào đòi “ân xá cụ Phan Bội Châu”, truy điệu cụ Phan Chu Trinh và sau đó gia nhập Tân Việt Đảng.
Năm 1930, khi tham gia phong trào Cứu tế đỏ, ông bị bắt và kết án 3 năm tù – một bước ngoặt giúp ông chuyển từ chủ nghĩa yêu nước thuần túy sang con đường cách mạng theo lý tưởng Mác – Lênin.
Ra Hà Nội năm 1929, ông cùng các trí thức cách mạng như Võ Nguyên Giáp, Trần Huy Liệu, Phan Thanh, Hoàng Minh Giám… dấn thân trên mặt trận tư tưởng – văn hóa, coi văn học nghệ thuật là “vũ khí sắc bén trong cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc”.
Năm 1935, ông cùng bạn bè sáng lập Trường Tư thục Thăng Long và sau đó là Hội Truyền bá chữ Quốc ngữ, hướng tới mục tiêu nâng cao dân trí, chống lại chính sách nô dịch văn hóa của thực dân, khơi dậy lòng yêu nước và tự cường dân tộc.
Sau thành công của Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp mời Giáo sư Đặng Thai Mai tham gia công tác giáo dục. Trên cương vị Bộ trưởng Bộ Giáo dục, ông đã nhanh chóng thành lập Nha Bình dân học vụ, mở rộng mạng lưới lớp học khắp nông thôn, xóa nạn mù chữ.

Nhờ nỗ lực của chính quyền cách mạng và sự hưởng ứng của toàn dân, chỉ trong 1 năm từ 8/1945 đến 8/1946, phong trào bình dân học vụ đã mở được gần 75.000 lớp, đào tạo 96.000 giáo viên, giúp 2,5 triệu người biết đọc, biết viết. Thành tựu này không chỉ góp phần nâng cao dân trí mà còn tạo nguồn lực quan trọng để dân tộc Việt Nam đứng vững trong cuộc kháng chiến bảo vệ nền độc lập non trẻ.
Trong suốt 82 năm cuộc đời, Giáo sư Đặng Thai Mai giữ nhiều trọng trách quan trọng: Bộ trưởng Bộ Giáo dục, Hiệu trưởng kiêm Chủ nhiệm khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Viện trưởng Viện Văn học. Ông là một trong những “đầu tàu” của giới văn nghệ sĩ kháng chiến, luôn lấy văn hóa và tri thức làm nền tảng cho tinh thần yêu nước.
Tại Đại hội Văn hóa toàn quốc lần thứ hai năm 1948, ông được bầu làm Chủ tịch Hội Văn hóa Cứu quốc – tiền thân của Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam, đồng thời là một trong những người sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam. Cùng lúc, ông vẫn miệt mài nghiên cứu và giảng dạy, trở thành một trong những học giả hàng đầu trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn.

Từ thập niên 1940, các bài viết của ông liên tục xuất hiện trên Thanh Nghị, Tri Tân, Văn Mới... Cho đến năm 1985, ông đã để lại hàng chục công trình, hàng nghìn trang nghiên cứu giá trị, tiêu biểu như Văn học khái luận (1944), Lỗ Tấn (1944), Chủ nghĩa nhân văn dưới thời kỳ Văn hóa Phục hưng (1949), Giảng văn Chinh phụ ngâm (1950), Lược sử văn học hiện đại Trung Quốc (1957), Văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX (1961), Văn thơ Phan Bội Châu (1959), bộ Trên đường học tập và nghiên cứu (1959, 1965, 1973), Đặng Thai Mai tuyển tập (1978) và Hồi ký Đặng Thai Mai (1985).
Mỗi công trình là một dấu mốc trong sự phát triển của ngành Ngữ văn học Việt Nam, thể hiện tư duy sâu sắc, phương pháp luận chặt chẽ và tinh thần dân tộc mạnh mẽ. Ở ông, hội tụ trí tuệ, nhân cách và lòng yêu nước của một học giả lớn. “Sự gặp gỡ may mắn của cổ đại và hiện đại, của Á và Âu, của văn hóa miền Nam và miền Bắc”, như nhiều người từng nhận xét về phong cách Đặng Thai Mai.
Ông am hiểu sâu sắc văn hóa phương Đông, đặc biệt là Trung Hoa, đồng thời thấm đẫm “chất Pháp” – sự tinh tế của văn hóa phương Tây. Trong đời sống thường nhật, ông giản dị, cởi mở, chân tình nhưng luôn nghiêm túc trong công việc. Ở ông có cả sự sâu sắc phương Đông lẫn nét hài hước, dí dỏm phương Tây.
3 chàng rể là 3 vị tướng lừng danh
Về đời tư, Giáo sư, nhà văn Đặng Thai Mai kết hôn năm 1926 với bà Hồ Thị Toan, con gái của cụ Hồ Phi Thống – một nhân sĩ yêu nước, tác giả cuốn Nhân đạo quyền hành nổi tiếng trước năm 1945. Ông bà có 6 người con, gồm 5 gái và 1 trai, tất cả đều đạt học vị cao và có nhiều đóng góp cho nền học thuật Việt Nam.
Con cả là Phó Giáo sư Sử học Đặng Bích Hà (sinh năm 1928); tiếp đến là Phó Giáo sư Văn học Pháp Đặng Thị Hạnh (sinh năm 1930); Giáo sư Văn học Việt Nam, Nhà giáo Nhân dân Đặng Thanh Lê (sinh năm 1932); Phó Giáo sư, Tiến sĩ Văn học phương Tây, Nhà giáo Ưu tú Đặng Anh Đào (sinh năm 1934); Phó Giáo sư, Kiến trúc sư, Nhà giáo Ưu tú Đặng Thái Hoàng (sinh năm 1939) và Phó Giáo sư, Tiến sĩ Sinh vật học Đặng Xuyến Như (sinh năm 1945).


Trong số các con rể của Giáo sư Đặng Thai Mai, có tới 3 người mang quân hàm tướng. Đó là Đại tướng Võ Nguyên Giáp – chồng của Phó Giáo sư Đặng Bích Hà; Trung tướng Phạm Hồng Cư – chồng của Phó Giáo sư Đặng Thị Hạnh và Trung tướng Phạm Hồng Sơn – chồng của Phó Giáo sư Đặng Anh Đào.
Đặc biệt, trước khi trở thành bố vợ – con rể, giữa Giáo sư Đặng Thai Mai và Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có một tình bạn sâu sắc. Dù hơn nhau 9 tuổi, song họ xem nhau như những người bạn đồng chí thân thiết.
Cả hai từng là đảng viên Tân Việt, bị thực dân Pháp bắt giam năm 1930, sau đó cùng sống bằng nghề dạy học. Năm 1935, họ cùng Phan Thanh và Hoàng Minh Giám sáng lập Trường Tư thục Thăng Long – một ngôi trường danh tiếng ở Hà Nội.

Trong giai đoạn 1936–1939, họ cùng hoạt động trong phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương, tích cực viết báo, biên tập, tuyên truyền cho Đảng Cộng sản Đông Dương. Sau Cách mạng Tháng 8/1945, cả hai đều được bầu làm Đại biểu Quốc hội khóa I. Trong Chính phủ lâm thời, đồng chí Đặng Thai Mai giữ chức Bộ trưởng Bộ Giáo dục, còn đồng chí Võ Nguyên Giáp là Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
Trong những năm tháng sôi nổi ấy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có dịp gặp lại Đặng Bích Hà – con gái lớn của người bạn thân. Tình cảm giữa hai người nảy nở tự nhiên, hòa quyện giữa lý tưởng cách mạng và sự đồng điệu trong tâm hồn.
Đám cưới của họ diễn ra giản dị, trang trọng, ngay trước ngày toàn quốc kháng chiến bùng nổ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tới dự và chúc phúc cho đôi vợ chồng trẻ. Vợ chồng Đại tướng sinh được 4 người con, trong đó có Tiến sĩ khoa học Vật lý Võ Hạnh Phúc.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp (thứ ba, từ phải sang) và Trung tướng Phạm Hồng Cư (thứ hai, từ phải sang).
Người con rể thứ hai của Giáo sư Đặng Thai Mai là Trung tướng Phạm Hồng Cư, tên thật là Lê Đỗ Nguyên (sinh năm 1926, quê Thanh Hóa). Ông là anh trai của nhân vật nữ Lê Đỗ Thị Ninh – người được nhà thơ Hữu Loan nhắc đến trong bài Màu tím hoa sim. Gia nhập quân đội từ tháng 9/1945 và trở thành đảng viên năm 1947, Phạm Hồng Cư đã tham gia nhiều chiến dịch lớn của quân đội ta, từ Điện Biên Phủ đến Hồ Chí Minh.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, ông kết hôn với Phó Giáo sư Đặng Thị Hạnh – con gái thứ hai của Giáo sư Đặng Thai Mai. Họ có 3 người con, đều được đào tạo bài bản, nhiều người hiện sinh sống và làm việc ở nước ngoài. Giai đoạn 1974–1978, ông giữ chức Cục trưởng Cục Văn hóa, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, sau đó là Phó Chính ủy, rồi Phó Tư lệnh kiêm Chủ nhiệm Chính trị Quân khu 2. Năm 1988, ông được phong hàm Trung tướng.
Vị tướng con rể thứ ba là Trung tướng Phạm Hồng Sơn, tên thật Phạm Thành Chính, sinh năm 1923 tại Nghệ An. Ông là cháu ruột của liệt sĩ Phạm Hồng Thái – người anh hùng đã hy sinh trong vụ mưu sát Toàn quyền Pháp ở Đông Dương Méc-lanh (Merlin) tại Sa Diện (Trung Quốc) năm 1925. Gia nhập quân đội từ năm 1945, Phạm Hồng Sơn từng chỉ huy nhiều chiến dịch lớn và được phong hàm Trung tướng năm 1982.
Trong kháng chiến chống Pháp, ông từng là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 36, Sư đoàn 308; sau đó giữ các chức vụ quan trọng như Tham mưu trưởng Quân khu Hữu Ngạn, Cục trưởng Cục Quân huấn, Bộ Tổng Tham mưu.
Từ năm 1967, ông vào chiến trường miền Nam chỉ huy chiến dịch Đường 9 – Nam Lào, rồi làm Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Mặt trận Tây Nguyên. Những năm 1971–1975, ông giữ chức Phó Viện trưởng Viện Khoa học Quân sự và Học viện Quân sự cấp cao.

Năm 1954, ông kết hôn với Phó Giáo sư Đặng Anh Đào, con gái thứ tư của Giáo sư Đặng Thai Mai. Lễ cưới được tổ chức tại Thanh Hóa ngay trước ngày hòa bình lập lại trên miền Bắc. Họ có 3 người con, trong đó, 2 người từng là sĩ quan hải quân và 1 người là tiến sĩ toán học, tất cả đều tốt nghiệp tại Liên Xô cũ.
Giáo sư Đặng Thai Mai qua đời ngày 25/9/1984, để lại niềm tiếc thương vô hạn trong lòng gia đình, đồng nghiệp và học trò. Với những cống hiến to lớn, ông được trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhì, Huân chương Hồ Chí Minh (1982) và Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (1996).
Suốt cuộc đời cống hiến cho tri thức và dân tộc, ông xứng đáng được ghi nhận như “một người yêu nước nhiệt thành và một nhà khoa học chân chính” – tấm gương sáng ngời của nền học thuật Việt Nam thế kỷ XX.
Cuộc đời và gia đình Giáo sư, nhà văn Đặng Thai Mai là tấm gương sáng về truyền thống hiếu học, tinh thần yêu nước và sự gắn bó giữa văn hóa – trí thức – cách mạng. Từ ông, những thế hệ con cháu tiếp nối đã góp phần tạo nên một dòng họ trí thức tiêu biểu của nền học thuật và quân đội Việt Nam hiện đại.
Bài viết có sử dụng thông tin tham khảo từ các nguồn:
- Giáo sư Đặng Thai Mai – nhà khoa học và người yêu nước – Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn
- Nhà văn Đặng Thai Mai – Bố vợ của ba vị tướng – Tạp chí Văn hóa và Phát triển
- Một gia đình trí thức đáng kính trọng – Báo Nhân dân
Ảnh: Sưu tầm





