'Vùng đất khoa bảng xứ Đông' có nhiều tiến sĩ Nho học nhất cả nước, quê hương của Lưỡng quốc Trạng Nguyên
(Thị trường tài chính) -Nhiều sử sách khẳng định, dù xét theo cách chia địa giới trước hay sau năm 1900, Nam Sách vẫn giữ vị trí số một về số lượng người đỗ đại khoa ở cấp huyện (cũ) và tương đương.
Sau khi sáp nhập với Hải Dương, TP. Hải Phòng có diện tích 3.194,72km2, quy mô dân số hơn 4,6 triệu người. Là một trong những thành phố lớn của cả nước, Hải Phòng hội tụ đầy đủ lợi thế về đường biển, đường sắt, đường bộ và đường hàng không để phát triển kinh tế - xã hội.
Không những thế, việc sáp nhập với Hải Dương càng giúp TP. Hải Phòng thêm hấp dẫn khi có nhiều điểm đến sở hữu giá trị văn hóa – lịch sử to lớn. Nổi bật trong số đó phải kể đến huyện Nam Sách cũ.
Nổi danh với truyền thống khoa bảng
Theo Báo Hải Phòng, trong tiến trình khoa cử Nho học Việt Nam (1075-1919), vùng đất Đông xưa (khu vực tỉnh Hải Dương cũ) được biết đến là cái nôi của truyền thống hiếu học và khoa bảng. Trong tổng số 2.898 vị tiến sĩ cả nước, nơi đây có tới 486 người.
Đặc biệt, huyện Nam Sách cũ là địa phương có số lượng tiến sĩ nhiều nhất toàn tỉnh Hải Dương với 106 vị (tính theo đơn vị hành chính trước năm 1900) và tăng lên 123 vị nếu xét theo địa giới hành chính trước năm 2008.

Thông tin từ một số tác phẩm như “Các vị đại khoa tỉnh Bắc Ninh” (Lê Viết Nga, 2003), “Giáo dục và khoa cử Thăng Long, Hà Nội” (Bùi Xuân Đính, 2010) hay “Các nhà khoa bảng Hưng Yên (1075-1919)” (Dương Thị Cẩm, 1999) đều khẳng định, dù xét theo cách chia địa giới trước hay sau năm 1900, Nam Sách vẫn giữ vị trí số một về số lượng người đỗ đại khoa ở cấp huyện (cũ) và tương đương.
Xếp sau là Bình Giang (Hải Dương), Từ Sơn (Bắc Ninh), Thường Tín (Hà Nội), Văn Giang (Hưng Yên), Hoàn Kiếm (Hà Nội), Nam Trực (Nam Định)... Dù hiện nay, sau khi sắp xếp đơn vị hành chính đã không còn cấp huyện, nhưng Nam Sách vẫn là nơi để lại dấu ấn lớn bởi truyền thống khoa bảng.
Các vị tiến sĩ quê Nam Sách đều tích cực tham gia công việc triều chính, đóng góp cho đất nước và địa phương trong nhiều lĩnh vực như chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa, giáo dục...
Tiêu biểu thời Lý có Mạc Hiển Tích - người đứng đầu kỳ thi chọn nhân tài văn học năm Bính Dần (1086), được bổ nhiệm làm Hàn lâm viện Học sĩ, sau thăng đến chức Thượng thư.
Đến thời Trần, truyền thống ấy được tiếp nối với Mạc Đĩnh Chi - danh sĩ lừng danh với hai lần đi sứ nhà Nguyên (1308 và 1324). Ông nổi tiếng bởi trí tuệ uyên bác, khả năng đối đáp linh hoạt, cương trực khiến vua quan phương Bắc phải thán phục.
Thời Lê sơ, Nam Sách có bảng nhãn Ngô Hoán - từng giữ chức Hiệu thứ Đông Các đại học sĩ, sau được thăng đến Lễ bộ Thượng thư. Không chỉ là vị quan thanh liêm, ông còn là một thi sĩ tài hoa, là thành viên của hội Tao Đàn “Nhị thập bát tú” dưới triều Lê Thánh Tông.
Trong số 5 hội viên Tao Đàn quê Hải Dương, Nam Sách có tới 4 người: Trần Sùng Dĩnh, Ngô Hoán, Vũ Dương và Nguyễn Hoản.

Thời Lê Trung hưng, ba thế hệ của dòng họ Trần gồm Trần Thọ, con trai Trần Cảnh và cháu nội Trần Tiến - đã có những đóng góp nổi bật cho triều đình.
Trần Thọ từng đảm nhiệm nhiều trọng trách như Giám sát Ngự sử, Phó Đô Ngự sử... Ngoài sự nghiệp chính trị, ông còn để lại dấu ấn trong văn học với một số bài thơ và văn bia. Sử nhà Nguyễn từng đánh giá ông là một trong những nhân vật tiêu biểu của Hải Dương thời Hậu Lê.
Trần Cảnh - con trai của Trần Thọ, là một đại thần từng giữ nhiều chức vụ quan trọng như Tế tửu Quốc Tử Giám, Tham tụng, Thượng thư... Ông cũng có đóng góp lớn trong lĩnh vực giáo dục khi được cử làm giám khảo các kỳ thi tại Sơn Tây, Tuyên Quang, Nghệ An, Thanh Hoa. Ông để lại nhiều tác phẩm như Minh nông chiêm phả, các văn bia quan trọng và được truy phong Quận công.
Trần Tiến - cháu nội Trần Thọ, làm quan đến chức Hàn lâm viện Thị độc, từng chấm thi khoa Kỷ Sửu (1769). Ông để lại nhiều trước tác có giá trị, trong đó có Niên phả lục, Đăng khoa lục sưu giảng, Cát Xuyên thi tập, Cát Xuyên tiệp bút...
Quê hương của "Lưỡng quốc Trạng nguyên"
Một trong những người con tiêu biểu của Nam Sách chính là Mạc Đĩnh Chi - người được mệnh danh là “Lưỡng quốc Trạng nguyên”.

Theo sử sách, Mạc Đĩnh Chi quê ở làng Long Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương cũ. Ông mồ côi cha từ nhỏ, phải vào rừng đốn củi kiếm sống để phụng dưỡng mẹ già. Dáng người ông nhỏ bé, dung mạo lại không ưa nhìn nên thường bị người đời trêu chọc, xem thường. Tuy nhiên, ông vẫn không ngừng nỗ lực.
Ngay từ thuở thiếu thời, Mạc Đĩnh Chi đã nuôi chí học hành, bởi ông hiểu rằng chỉ có con đường học vấn mới giúp mình vượt lên số phận.
Nhờ tài năng, ông được Chiêu Quốc Vương chú ý và thu nhận làm học trò. Từ đó, ông được chu cấp lương thực và hỗ trợ học hành, tạo điều kiện để chuyên tâm trau dồi tri thức và thi cử đỗ đạt.
Theo ghi chép trong Đại Việt Sử ký Toàn thư, vào năm 1308, khi sứ thần nhà Nguyên là Thượng thư An Lỗ Khôi sang Đại Việt báo tin vua Vũ Tông lên ngôi, triều đình đã cử Mạc Đĩnh Chi đi sứ sang Nguyên. Lúc ấy, việc đi sứ được nhận định là “lành ít dữ nhiều”.
Thấy Mạc Đĩnh Chi có vẻ ngoài thấp bé, vua Nguyên không mấy coi trọng. Tuy nhiên, trong buổi tiếp kiến đầu tiên tại kinh đô Yên Kinh, vua Nguyên ra một câu đối và yêu cầu Mạc Đĩnh Chi đối lại. Ông cương trực ra vế đối, không hề tỏ ra run sợ trước nước lớn.
Nhờ tài năng xuất chúng, Mạc Đĩnh Chi dần khiến vua Nguyên ngưỡng mộ, dành tặng bốn chữ “Lưỡng quốc Trạng nguyên” để tôn vinh ông.
Với truyền thống khoa bảng lâu đời, vùng đất Nam Sách đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử giáo dục Việt Nam. Những giá trị văn hóa, lịch sử này không chỉ giúp Hải Phòng có thêm cơ hội phát triển kinh tế - xã hội mà còn góp phần làm nên sức hấp dẫn của vùng đất này.
* Tổng hợp





