Trước Lê Quý Đôn, đây là 7 danh nhân Việt Nam được UNESCO vinh danh
(Thị trường tài chính) -8 nhân tài đất Việt được UNESCO vinh danh là Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh, Nguyễn Du, Chu Văn An, Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Xuân Hương và Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, Lê Quý Đôn.
Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, sinh năm 1380. Cha ông là Nguyễn Phi Khanh, người làng Chi Ngại (nay thuộc TP Chí Linh, Hải Dương), sau chuyển về làng Ngọc Ổi, Nhị Khê (nay thuộc huyện Thường Tín, Hà Nội). Mẹ ông là Trần Thị Thái, con gái quan Đại Tư đồ Trần Nguyên Đán.
Năm 1400, Nguyễn Trãi đỗ Thái học sinh (tương đương Tiến sĩ ngày nay) và được bổ nhiệm làm quan dưới triều Hồ. Khi giặc Minh xâm lược, ông nuôi chí cứu nước, tìm đến Lam Sơn theo Lê Lợi, trở thành người cộng sự thân tín, mưu lược của nghĩa quân.

Ông chính là người thay mặt Lê Lợi soạn Bình Ngô đại cáo - áng “thiên cổ hùng văn” được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam, khẳng định nền độc lập, chủ quyền và tư tưởng nhân nghĩa của dân tộc.
Nguyễn Trãi không chỉ là nhà chính trị, nhà quân sự thiên tài, mà còn là nhà văn hóa, nhà thơ lớn. Tác phẩm của ông như Quốc âm thi tập, Ức Trai thi tập, Bình Ngô đại cáo thể hiện tư tưởng yêu nước, nhân đạo và khát vọng vì dân...
Năm 1980, nhân kỷ niệm 600 năm ngày sinh của ông, UNESCO đã vinh danh Nguyễn Trãi là Danh nhân văn hóa thế giới, ghi nhận những đóng góp to lớn của ông đối với nền văn hóa, lịch sử và tư tưởng nhân loại.
Nguyễn Trãi mãi được tôn vinh là Anh hùng dân tộc, biểu tượng của trí tuệ, nhân nghĩa và lòng yêu nước Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam. Sinh ra trong gia đình hiếu học, có truyền thống yêu nước, Người luôn đau đáu đi tìm con đường cứu nước.
Năm 1911, khi mới 21 tuổi, với ý chí kiên cường và lòng yêu nước sâu sắc, Người ra đi tìm đường cứu nước. Trên hành trình bôn ba khắp năm châu, Hồ Chí Minh vừa lao động, học tập, vừa tìm hiểu lý luận cách mạng và kinh nghiệm đấu tranh của các dân tộc bị áp bức.
Từ đó, Người nhận ra rằng nguyên nhân của mọi bất công là do chế độ thực dân, đế quốc và chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải phóng con người khỏi ách nô lệ.

Niềm tin vững chắc ấy đã dẫn Người đến con đường cách mạng đúng đắn. Từ đó, Việt Nam từ một nước thuộc địa nghèo nàn trở thành quốc gia độc lập, phát triển, có vị thế ngày càng quan trọng trên trường quốc tế. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, xã hội và tương lai của mình.
Không chỉ là lãnh tụ cách mạng vĩ đại, Hồ Chí Minh còn là nhà văn hóa, nhà ngoại giao và nhà giáo dục lớn. Người cũng là biểu tượng của hòa bình, công lý và tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc.
Ghi nhận những cống hiến to lớn của Người đối với nhân loại, năm 1987, UNESCO đã thông qua Nghị quyết 24C/18.6.5, tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam và nhà văn hóa kiệt xuất của thế giới, nhân dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Người (1990).
Nguyễn Du
Đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820), tên chữ Tố Như, hiệu Thanh Hiên, sinh ra tại làng Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh, trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng. Cha ông là Nguyễn Nghiễm - từng giữ chức Tể tướng triều Lê, mẹ là bà Trần Thị Tần, người có học thức và tài năng.
Tuổi thơ của Nguyễn Du gắn liền với nhiều mất mát, mồ côi cha năm 10 tuổi, mẹ mất khi mới 13 tuổi, phải sống trong cảnh phiêu bạt, nếm trải nhiều gian truân.
Nguyễn Du để lại cho đời di sản văn học đồ sộ, bao gồm ba tập thơ chữ Hán là Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục với gần 250 bài; cùng nhiều tác phẩm chữ Nôm, trong đó kiệt tác Truyện Kiều là đỉnh cao của văn học Việt Nam.

Các tác phẩm của Nguyễn Du thấm đượm tinh thần nhân đạo và triết lý nhân sinh sâu sắc, thể hiện lòng thương cảm với thân phận con người, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Tư tưởng của ông chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo, nhưng vượt lên trên khuôn khổ lễ giáo, hướng tới giá trị nhân văn phổ quát – lòng nhân ái, sự đồng cảm và khát vọng tự do.
Tác phẩm nổi bật Truyện Kiều với hơn 3.200 câu lục bát là một trong những cầu nối đưa văn hóa Việt Nam ra thế giới. Tác phẩm được dịch ra hơn 20 ngôn ngữ với hơn 60 bản dịch khác nhau, được đón nhận nồng nhiệt ở nhiều quốc gia.
Chu Văn An
Chu Văn An tên thật là Chu An, tự Linh Triệt, sinh tại thôn Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội (nay là phường Thanh Liệt, Hà Nội). Ông được coi là tấm gương mẫu mực của nghề dạy học và là người thầy của mọi thời đại trong lịch sử giáo dục Việt Nam.

Từ nhỏ, Chu Văn An đã nổi bật về đức hạnh và học vấn. Sau khi thi đỗ Thái học sinh dưới triều Trần Minh Tông, thay vì ra làm quan, ông chọn con đường dạy học tại quê nhà. Tư tưởng giáo dục của ông mang tính nhân văn sâu sắc, khuyến khích học suốt đời, học đi đôi với hành, không phân biệt giàu nghèo, nhằm đào tạo nhân tài phục vụ xã hội. Nhiều môn đệ của Chu Văn An trở thành người nổi tiếng về học vấn và đức độ.
Chu Văn An chọn nghề giáo nhưng không lẩn tránh thời cuộc. Ông theo con đường của trí thức Nho giáo, dùng sự nghiệp giáo dục để đóng góp cho đất nước.
Với những đóng góp của mình, hiện nay có nhiều di tích thờ phụng ông như đền Thanh Liệt, đền Huỳnh Cung, đền Văn Điển, đền Phượng Sơn... Tên của ông cũng được đặt cho nhiều con phố, trường học.
Nguyễn Đình Chiểu
Nguyễn Đình Chiểu còn gọi là Cụ đồ Chiểu, tự Mạch Trạch, hiệu Trọng Phủ Hối Trai, sinh ngày 1/7/1822. Ông là một danh nhân văn hóa tiêu biểu, một nhà thơ lớn, chí sĩ yêu nước trong lịch sử Việt Nam.
Ông bị mù từ nhỏ nhưng nhờ tri thức cùng tấm lòng yêu nước thương dân, ông có thể "nhìn thấu" mọi việc của thế giới, kiên quyết chống lại bất công, áp bức bằng ngòi bút tài hoa, giàu nhân văn.
Các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Đình Chiểu đa dạng từ thơ đến văn tế. Ông là tác giả của Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Ngư Tiều y thuật vấn đáp.
Văn tế, thơ lẻ, Nguyễn Đình Chiểu được ngưỡng mộ bởi loạt tác phẩm như Chạy giặc, Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc, Văn điếu Trương Định, Văn tế lục tỉnh sĩ dân trận vong...
Ngoài văn chương, Nguyễn Đình Chiểu còn là nhà giáo nổi tiếng, luôn tận tâm vì học trò. Là người tài năng, đức độ, ông là một trong những danh nhân được tôn vinh trong lịch sử Việt Nam.
Hồ Xuân Hương
Trong số các danh nhân Việt Nam được UNESCO vinh danh, Hồ Xuân Hương là người phụ nữ duy nhất. Bà sinh ra tại làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu cũ, Nghệ An, là nữ thi sĩ tiêu biểu của văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa cuối thế kỷ XIX. Bà được mệnh danh là “Bà Chúa thơ Nôm”.
Thơ Hồ Xuân Hương nổi bật bởi tư tưởng nhân văn, dám đấu tranh cho quyền sống, quyền yêu đương, hạnh phúc, đặc biệt là quyền của phụ nữ, nhấn mạnh bình đẳng giới và sự hiện diện đầy đủ của con người trong đời sống.
Các bài thơ tiêu biểu của bà có thể kể đến Bánh trôi nước, Thiếu nữ ngủ ngày, Đèo Ba Dội, Động Hương Tích, Vịnh cái quạt, Dệt cửi, Đánh đu...
Không chỉ nổi tiếng ở Việt Nam, các tác phẩm của bà được giới chuyên môn quốc tế đánh giá cao. Nhiều nhà nghiên cứu văn học coi bà là nữ thi sĩ hàng đầu của châu Á.
Đến năm 2021, thơ của Hồ Xuân Hương đã được dịch ra 13 thứ tiếng, thể hiện sức lan tỏa toàn cầu. Tiếng Việt qua thơ bà là ngôn ngữ nghệ thuật đa nghĩa, sắc sảo, độc đáo và tài hoa, mang thách thức lớn đối với các dịch giả khi chuyển ngữ.
Hồ Xuân Hương là biểu tượng của tài năng, trí tuệ, nữ quyền và bản sắc văn hóa Việt Nam, để lại dấu ấn vĩnh cửu trong lịch sử văn học dân tộc.
Lê Quý Đôn
Ngày 31/10, tại thành phố Samarkand (Cộng hòa Uzbekistan), Kỳ họp lần thứ 43 Đại hội đồng Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) đã chính thức thông qua Nghị quyết vinh danh và cùng tham gia kỷ niệm 300 năm Ngày sinh Danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn.
Danh nhân Lê Quý Đôn sinh năm 1726, tại làng Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam (nay là xã Lê Quý Đôn, tỉnh Hưng Yên). Lúc nhỏ, ông tên là Lê Danh Phương, tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường.

Sinh ra trong gia đình có truyền thống hiếu học, từ nhỏ ông đã bộc lộ tư chất thông minh hơn người. Năm 14 tuổi, Lê Quý Đôn theo cha ra kinh thành Thăng Long (nay là Hà Nội) để tiếp tục trau dồi kiến thức, mở rộng con đường học tập.
Ở tuổi 17, ông đỗ đầu kỳ thi Hương - kỳ thi chọn nhân tài cấp tỉnh. Mười năm sau, ông tiếp tục đạt ngôi vị cao nhất trong kỳ thi Hội, được xưng là Hội nguyên. Với tài năng xuất chúng, Lê Quý Đôn còn giành danh hiệu Đình nguyên Bảng nhãn trong kỳ thi Đình, một trong những vinh dự cao quý nhất trong hệ thống khoa cử phong kiến Việt Nam.
Với hơn 40 tác phẩm bao quát nhiều lĩnh vực như lịch sử, văn hóa, nông nghiệp, thiên văn, địa lý… ông được mệnh danh là một trong những nhà bác học lớn nhất của Việt Nam thời phong kiến. Các công trình nổi bật gồm Vân đài loại ngữ, Kiến văn tiểu lục, Đại Việt thông sử, Bắc sử thông lục, Toàn Việt thi lục...
Ông mất năm 1784, để lại nhiều tiếc nuối cho hậu thế.
Lê Hữu Trác
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác sinh năm 1724, quê cha ở thôn Văn Xá (nay thuộc xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, Hưng Yên), quê mẹ tại xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là con Tiến sĩ, Thị lang Bộ Công triều Lê nên sớm được học hành ở Thăng Long, nổi tiếng thông minh và ham học.
Với tài năng xuất chúng, ông đỗ Tam trường và từng theo học binh thư. Vì thế, Lê Hữu Trác được tuyển vào quân đội chúa Trịnh. Tuy nhiên, chán cảnh quan trường rối ren, ông xin cáo quan về quê mẹ ở ẩn. Trong thời gian này, khi mắc bệnh nặng, Lê Hữu Trác được lương y Trần Độc chữa trị và truyền dạy nghề thuốc. Từ đó, ông chuyên tâm nghiên cứu y học, lấy hiệu là Hải Thượng Lãn Ông với tâm niệm cứu người, giúp đời.
Tác phẩm đồ sộ của ông là “Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh” gồm 28 tập, 66 quyển, bao quát nhiều lĩnh vực như nội, ngoại, phụ, nhi, truyền nhiễm, vệ sinh, dinh dưỡng và y đức. Đây được xem là “bách khoa thư” y học cổ truyền Việt Nam.
Ngoài y học, Lê Hữu Trác còn là nhà văn, nhà thơ, nhà tư tưởng lớn. Các tác phẩm của ông phản ánh đời sống cung đình và xã hội đương thời. Ông cũng sáng tác nhiều bài ca, thơ y học giản dị, dễ hiểu, giúp phổ biến kiến thức chữa bệnh và dưỡng sinh cho nhân dân.
Hải Thượng Lãn Ông qua đời năm 1791 tại quê mẹ Hà Tĩnh. Với y đức và học thuật uyên thâm, ông được tôn vinh là “Y thánh của Việt Nam”, cùng với danh y Tuệ Tĩnh trở thành biểu tượng bất diệt của nền y học dân tộc.





