Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường: Doanh nhân Nguyễn Hòa Bình có thể bị phạt tù cao nhất đến chung thân

Thùy Dung

(Thị trường tài chính) - Theo kết quả điều tra ban đầu, bị can Nguyễn Hòa Bình cùng 9 đồng phạm khác bị khởi tố vì vi phạm Điều 174 và Điều 221 Bộ luật Hình sự.

Ngày 14/10, Công an TP. Hà Nội tổ chức hội nghị thông tin báo chí nhằm cung cấp kết quả điều tra, khám phá một số vụ án điển hình trong thời gian qua liên quan đến lĩnh vực kinh tế và môi trường.

Tại hội nghị, Công an TP.  Hà Nội đã công bố thông tin về vụ án liên quan đến những vi phạm xảy ra tại Công ty Cổ phần Tập đoàn NextTech cùng một số công ty có liên quan.

Theo cơ quan điều tra, Công an TP. Hà Nội đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với ông Nguyễn Hòa Bình (44 tuổi, thường được biết đến với tên Shark Bình) và 9 đồng phạm để điều tra về hai tội danh “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”.

Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường: Doanh nhân Nguyễn Hòa Bình có thể bị phạt tù cao nhất đến chung thân - ảnh 1
Ông Nguyễn Hòa Bình và 9 đồng phạm. Ảnh: Linh Đan

Thông tin này ngay lập tức thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận, nhất là trong giới đầu tư công nghệ và tài chính. Với vai trò là người sáng lập và điều hành một tập đoàn lớn, việc ông Nguyễn Hòa Bình bị khởi tố đã đặt ra nhiều câu hỏi pháp lý liên quan đến trách nhiệm của cá nhân đứng đầu doanh nghiệp, cũng như những hệ lụy đối với các nhà đầu tư đã góp vốn vào các dự án thuộc hệ sinh thái NextTech.

Nhằm giúp độc giả có cái nhìn rõ hơn về khía cạnh pháp lý của vụ việc, phóng viên đã có cuộc trao đổi với Tiến sĩ, Luật sư (TS. LS) Đặng Văn Cường – Trưởng Văn phòng Luật sư Chính Pháp, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội.

Thưa Luật sư, Cơ quan điều tra Công an TP. Hà Nội mới đây đã khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với doanh nhân Nguyễn Hòa Bình (Shark Bình) và 9 đồng phạm về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” cùng tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”. Ông đánh giá thế nào về tính chất của vụ án này?

Đây là vụ án hình sự đặc biệt nghiêm trọng, thu hút sự quan tâm lớn của dư luận xã hội không chỉ vì doanh nhân nổi tiếng Nguyễn Hòa Bình bị khởi tố, mà còn bởi tính chất quy mô và thủ đoạn tinh vi trong hoạt động lừa đảo tiền ảo.

Kết quả điều tra và thông tin công khai từ Công an TP. Hà Nội cho thấy, hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua các dự án tiền số do Nguyễn Hòa Bình và một số bị can thực hiện đã có đủ chứng cứ rõ ràng để chứng minh tội phạm. Các bị can đã thừa nhận hành vi vi phạm và cam kết hoàn trả tiền cho các nhà đầu tư.

Theo cơ quan điều tra, đến nay đã tiến hành phong tỏa, kê biên, niêm phong khối tài sản có giá trị đặc biệt lớn khoảng 900 tỷ đồng, bao gồm vàng, ngoại tệ, nhà đất, ô tô và nhiều tài sản khác. Vụ án này một lần nữa lập “kỷ lục” về giá trị tài sản bị thu giữ, phong tỏa liên quan đến tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong thời gian gần đây.

Hiện bị can Nguyễn Hòa Bình cùng 9 đồng phạm khác đã bị khởi tố về hai tội danh: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”theo quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự và “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng” theo Điều 221 Bộ luật Hình sự.

Với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, các bị can có thể phải đối mặt với khung hình phạt cao nhất được quy định tại khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự, là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.

Còn với tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”, nếu thiệt hại được xác định từ 1.000.000.000 đồng trở lên, người phạm tội có thể phải chịu mức phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.

Trường hợp bị kết tội ở nhiều tội danh, tòa án sẽ tổng hợp hình phạt theo nguyên tắc: nếu hình phạt cao nhất là tù chung thân thì hình phạt chung sẽ là tù chung thân; còn nếu người phạm tội bị tuyên tù có thời hạn, tổng hình phạt chung phải chấp hành không vượt quá 30 năm tù, theo quy định của Bộ luật Hình sự.

Cơ quan điều tra cho biết, đến thời điểm này, doanh nhân Nguyễn Hòa Bình và các đồng phạm đã bị khởi tố về hai tội danh nêu trên. Tuy nhiên, đây là vụ án phức tạp, liên quan đến hệ sinh thái của một doanh nghiệp lớn với sự tham gia của nhiều tổ chức và cá nhân.

Trong quá trình điều tra, cơ quan chức năng còn phát hiện nhiều hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật khác, nên không loại trừ khả năng sẽ có thêm các bị can hoặc tội danh mới được khởi tố, kể cả những người có vai trò đồng phạm với Nguyễn Hòa Bình.

Với vai trò là người sáng lập, “cố vấn chiến lược” của dự án AntEx và là gương mặt quảng bá quỹ Next100 Blockchain, việc Nguyễn Hòa Bình sử dụng uy tín cá nhân để kêu gọi đầu tư nhưng dự án không thực hiện đúng cam kết có thể bị xử lý thế nào theo pháp luật?

Việc sử dụng hình ảnh, thông tin của người nổi tiếng để quảng bá sản phẩm, dự án hay ký hợp đồng quảng cáo là chuyện khá phổ biến trong hoạt động kinh doanh hiện nay. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra trong vụ án này là dự án do Nguyễn Hòa Bình sáng lập cùng một số thành viên khác, đã bị lợi dụng uy tín cá nhân để thực hiện hành vi lừa đảo.

Bị can Nguyễn Hòa Bình vốn là người có danh tiếng trong giới công nghệ, được biết đến qua các chương trình “Shark Tank Việt Nam”, được xem là nhà đầu tư có kinh nghiệm và tiềm lực tài chính lớn.

Chính vì vậy, nhiều người hâm mộ và tin tưởng vào uy tín cá nhân của bị can đã cho rằng việc Bình tham gia đầu tư là bảo chứng cho khả năng thành công của dự án, từ đó mạnh dạn rót vốn với số tiền lớn.

Tuy nhiên, các hình thức quảng cáo về mức đầu tư, công nghệ blockchain hay các quỹ đầu tư được đưa ra trong dự án này thực chất là những thông tin gian dối nhằm thu hút nhà đầu tư. Cũng chính vì tin vào những thông tin đó mà có khoảng 30.000 người tham gia đầu tư và bị mất trắng số tiền đã bỏ ra.

Với những thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản như vậy, cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với Nguyễn Hòa Bình và các đồng phạm về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Ngoài trách nhiệm hình sự, các bị can còn phải bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho các nạn nhân.

Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường: Doanh nhân Nguyễn Hòa Bình có thể bị phạt tù cao nhất đến chung thân - ảnh 2
TS. LS Đặng Văn Cường – Trưởng Văn phòng Luật sư Chính Pháp, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội. Ảnh: NVCC

Từ tháng 8 đến tháng 11/2021, dự án AntEx được cho là đã phát hành hơn 33 tỷ token, thu về 4,5 triệu USDT, sau đó rút tiền về ví cá nhân. Trong các vụ án liên quan đến tiền số, cơ quan điều tra dựa vào những dữ liệu nào để chứng minh hành vi chiếm đoạt? Chứng cứ trên blockchain có được coi là hợp pháp không, thưa Luật sư?

Về nguyên tắc, cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm chứng minh tội phạm thông qua việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ. Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Chứng cứ có thể là lời khai, vật chứng, kết luận giám định, kết quả định giá hoặc dữ liệu trên môi trường điện tử.

Trong bối cảnh tội phạm công nghệ ngày càng gia tăng, chứng cứ điện tử đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc làm rõ hành vi phạm tội. Đặc biệt, đối với các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử, đây là yếu tố then chốt giúp cơ quan điều tra xác định rõ hành vi, phương thức, thủ đoạn và hậu quả của tội phạm.

Tuy nhiên, đặc điểm của loại chứng cứ này là dễ hình thành, dễ bị thay đổi hoặc xóa bỏ, gây nhiều khó khăn cho quá trình thu thập và xử lý.

Chính từ đặc thù đó, trước khi bị khởi tố, doanh nhân Nguyễn Hòa Bình và một số người liên quan từng cho rằng với trình độ công nghệ hiện nay, trong khi pháp luật Việt Nam chưa công nhận tài sản ảo thì việc truy vết hành vi chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng là rất khó, thậm chí có thể “không thể tìm ra”. Họ tin rằng hành vi chiếm đoạt như vậy là hợp pháp và cơ quan chức năng sẽ không thể xử lý.

Tuy nhiên, đây là nhận thức sai lầm. Sự chủ quan và niềm tin rằng hành vi phạm tội sẽ không bị phát hiện đã khiến các bị can tiếp tục vi phạm, dẫn đến hậu quả nghiêm trọng.

Thực tế cho thấy, cơ quan điều tra đã thu thập được nhiều tài liệu, chứng cứ quan trọng chứng minh hành vi phạm tội. Các bị can cũng đã thừa nhận vi phạm và cam kết hoàn trả tiền cho nhà đầu tư. Điều này là minh chứng rõ ràng rằng dù tội phạm có tinh vi đến đâu, dù dấu vết điện tử có bị xóa hoặc thay đổi, cơ quan chức năng vẫn có đủ biện pháp nghiệp vụ và phương tiện kỹ thuật hiện đại để phát hiện, phục hồi và chứng minh tội phạm.

Thực tế, khung pháp lý về tài sản số và tiền ảo ở Việt Nam hiện nay còn nhiều khoảng trống. Điều này có gây khó khăn cho quá trình điều tra, truy tố hay không?

Hiện nay, pháp luật Việt Nam vẫn chưa hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh đối với tài sản ảo và tiền ảo. Phải đến khi Luật Công nghiệp công nghệ có hiệu lực từ ngày 01/01/2026, mới xuất hiện những quy định đầu tiên liên quan đến loại hình tài sản này.

Luật nêu rõ: “Tài sản số là tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự, được thể hiện dưới dạng dữ liệu số, được tạo lập, phát hành, lưu trữ, chuyển giao và xác thực bởi công nghệ số trên môi trường điện tử.”

Theo đó, tài sản số được chia thành 3 nhóm chính:

- Tài sản ảo trên môi trường điện tử: Là loại tài sản số có thể được sử dụng cho mục đích trao đổi hoặc đầu tư. Tài sản ảo không bao gồm chứng khoán, các dạng số của tiền pháp định và các tài sản tài chính khác theo quy định của pháp luật về dân sự và tài chính.

- Tài sản mã hóa: Là tài sản số sử dụng công nghệ mã hóa hoặc công nghệ số tương tự để xác thực trong quá trình tạo lập, phát hành, lưu trữ và chuyển giao. Tài sản mã hóa không bao gồm chứng khoán, các dạng số của tiền pháp định và tài sản tài chính khác.

- Tài sản số khác.

Đây được xem là bước tiến pháp lý đầu tiên, đặt nền móng cho việc xây dựng khung pháp lý quản lý tiền ảo, tài sản ảo, tài sản số và tài sản mã hóa tại Việt Nam. Tuy nhiên, vào thời điểm dự án tiền ảo AntEx được triển khai và thậm chí cho đến hiện nay luật này vẫn chưa có hiệu lực thi hành.

Chính sự thiếu hụt quy định pháp luật trong lĩnh vực này đã tạo ra khoảng trống pháp lý, khiến một số đối tượng lợi dụng kẽ hở cùng với sự thiếu hiểu biết và lòng tin của nhà đầu tư để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Tuy nhiên, không phải mọi hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên môi trường mạng đều nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của pháp luật hình sự. Trong các trường hợp tài sản số hoặc tiền ảo được sử dụng như công cụ, thủ đoạn để chiếm đoạt tiền pháp định, thì hoàn toàn có thể bị xử lý hình sự.

Ví dụ, khi các đối tượng lập ra dự án đầu tư “ảo”, kêu gọi góp vốn bằng tiền ảo nhưng thực tế không triển khai, mà đưa ra thông tin gian dối nhằm chiếm đoạt tiền thật của nhà đầu tư, thì hành vi này đã cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong trường hợp đó, tiền ảo chỉ là phương tiện phạm tội, còn tài sản bị chiếm đoạt là tiền pháp định, nên việc khởi tố và xử lý hình sự là có căn cứ pháp luật.

Vụ án liên quan đến doanh nhân Nguyễn Hòa Bình và các đồng phạm là một ví dụ điển hình. Các bị can đã triển khai dự án tiền ảo khi chưa đủ điều kiện pháp lý, kêu gọi vốn với mục đích chiếm đoạt tài sản của nhà đầu tư thay vì phát triển dự án thực tế. Việc cố tình không thực hiện dự án nhằm chiếm đoạt tiền của người tham gia cho thấy hành vi phạm tội rõ ràng, do đó việc khởi tố và xử lý hình sự là hoàn toàn đúng quy định pháp luật.

Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường: Doanh nhân Nguyễn Hòa Bình có thể bị phạt tù cao nhất đến chung thân - ảnh 3
Các bị can trong vụ án đã thừa nhận vi phạm và cam kết hoàn trả tiền cho nhà đầu tư. Ảnh: TPO

Thưa Luật sư, tài sản bị phong tỏa trong vụ án này sẽ được xử lý ra sao? Các nhà đầu tư có cơ hội lấy lại tiền hay không?

Dưới góc độ pháp lý, số tài sản thu giữ trong vụ án này được xác định là vật chứng của vụ án hình sự, bao gồm những tài sản có liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội hoặc do phạm tội mà có. Tuy nhiên, trong khối tài sản đó cũng có thể tồn tại tài sản hợp pháp thuộc quyền sở hữu của các bị can. Việc xử lý sẽ được thực hiện theo đúng nguyên tắc xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự.

Đối với tài sản chiếm đoạt của người bị hại trong vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cơ quan điều tra sẽ thu giữ để hoàn trả cho người bị hại. Với tài sản gây thiệt hại cho Nhà nước trong vụ án vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng, số này sẽ được sử dụng để bồi thường, khắc phục hậu quả. 

Trường hợp tài sản do phạm tội mà có hoặc có nguồn gốc từ tội phạm, cơ quan chức năng sẽ tịch thu, sung công quỹ Nhà nước. Ngoài ra, nếu bị can bị áp dụng hình phạt bổ sung như phạt tiền hoặc tịch thu một phần hay toàn bộ tài sản thì việc xử lý cũng phải tuân thủ theo quy định pháp luật hiện hành.

Theo thông tin từ cơ quan điều tra, đến nay các bị can đã tự nguyện nộp hơn 3 tỷ 450 triệu đồng để bồi thường, khắc phục hậu quả. Tuy nhiên, do số lượng bị hại và mức thiệt hại cụ thể vẫn chưa được xác định đầy đủ, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ tạm giữ khoản tiền này cho đến khi có kết luận cuối cùng, nhằm đảm bảo việc giải quyết đúng quy định pháp luật.

Trong quá trình điều tra và xét xử, nếu bị can, người có liên quan hoặc thân nhân của họ tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả hoặc hoàn trả tài sản cho người bị hại, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ ghi nhận các thỏa thuận này, miễn là không trái quy định pháp luật và đạo đức xã hội.

Ngược lại, nếu người phạm tội hoặc người liên quan không tự nguyện bồi thường, thì người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự sẽ được nhận lại tiền, tài sản của mình sau khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, trong giai đoạn thi hành án theo trình tự và thủ tục luật định.

Hiện nay, cơ quan điều tra đang kêu gọi các bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chủ động cung cấp thông tin, tài liệu và liên hệ làm việc để làm rõ các tình tiết của vụ án, đồng thời gửi yêu cầu, đề nghị nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Việc các tổ chức, cá nhân tích cực phối hợp, cung cấp chứng cứ sẽ góp phần đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án, đồng thời bảo đảm tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của những người liên quan theo quy định của pháp luật.

Xin cảm ơn Luật sư về những chia sẻ hữu ích trên!

Tin tức

Tin đọc nhiều