Công bố xếp hạng tín nhiệm lần đầu với Ngân hàng Bắc Á
(Thị trường tài chính) - Tổ chức xếp hạng tín nhiệm FiinRatings vừa thông báo kết quả Xếp hạng Tín nhiệm dài hạn Nhà phát hành lần đầu đối với Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á (Bac A Bank- Mã CK: BAB) ở mức điểm A- với triển vọng xếp hạng ‘Ổn định’.
Kết quả xếp hạng ở mức điểm A- với triển vọng xếp hạng ‘Ổn định’
Mức điểm xếp hạng tín nhiệm này phản ánh ý kiến của FiinRatings về việc hồ sơ tín dụng của Ngân hàng sẽ duy trì ổn định trong 24 tháng tới, nhờ vào khả năng duy trì vị thế kinh doanh ổn định, cùng với năng lực quản trị rủi ro tốt của Ngân hàng.
Bac A Bank có chiến lược cho vay nhất quán với tỷ trọng ổn định trong nhiều năm, tập trung vào những nhóm ngành thiết yếu và ít bị ảnh hưởng mạnh với các biến động kinh tế như nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.
Liên quan tới công tác quản trị rủi ro tín dụng của các bên liên quan, tại thời điểm 31/12/2023, dư nợ cho vay của BAB đối với Tập đoàn TH và các khách hàng mang thương hiệu TH đạt 5.800 tỷ đồng, chiếm 5,8% tổng số dư cho vay khách hàng. Các khách hàng doanh nghiệp mang thương hiệu TH phần lớn cũng là nhóm đầu vào của Tập đoàn TH, với tình hình kinh doanh gần đây đều có sự cái thiện, đặc biệt sau giai đoạn Covid-19, dựa trên số liệu tài chính của các doanh nghiệp trong 3 năm trở lại đây.
Bên cạnh đó, khả năng huy động vốn và vị thế thanh khoản của Ngân hàng cũng được kỳ vọng sẽ tiếp tục được duy trì ổn định nhờ nguồn tiển gửi của khách hàng cá nhân và danh mục tài sản đầu tư có tính thanh khoản cao, cùng với đó chiến lược kinh doanh vốn thị trường 2 phù hợp đã hạn chế rủi ro từ sự phụ thuộc vào nguồn vốn bán buôn của BAB.
Vị thế kinh doanh của Bac A Bank được đánh giá ở mức ‘Trung bình’, dựa trên đánh giá về quy mô cũng như mức độ đa dạng kinh doanh của Ngân hàng có sự khiêm tốn hơn so với trung bình ngành. Điều này sẽ có tác động đến mức độ ổn định kinh doanh của Ngân hàng trong trung hạn.
Thị phần khiêm tốn nhưng kinh doanh duy trì ổn định
Tính đến 31/12/2023, xét về quy mô, BAB thuộc nhóm ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ ở Việt Nam, có thị phần tương đối khiêm tốn nhưng được duy trì ổn định trong nhiều năm trở lại đây.
Thị phần của BAB tính theo Tổng tài sản, Tiền gửi khách hàng và Dư nợ cho vay khách hàng đều được duy trì ổn định, chiếm khoảng 1,0% của toàn ngành, với mức độ biến động về các chỉ tiêu này trong 5 năm gần đây ít hơn 0,1 điểm phần trăm hàng năm bất chấp những diễn biến của thị trường.
Tính tới thời điểm 31/12/2023, 20 khách hàng doanh nghiệp lớn nhất chiếm khoảng 22% tổng dư nợ vay cho vay của Ngân hàng, tập trung chủ yếu vào doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và sản xuất nông nghiệp. Đây đều là những doanh nghiệp lớn trong ngành có chất lượng tín dụng tốt và nằm trong chuỗi giá trị cho vay điển hình của BAB.
Mặc dù độ phủ về địa lý của BAB còn hạn chế so với mặt bằng chung các ngân hàng khác, nhưng Ngân hàng đang cho thấy sự ổn định trong kinh doanh, được củng cố bởi tập khách hàng gắn bó và ổn định. Nhóm khách hàng gửi tiền tại BAB chủ yếu là các khách hàng cá nhân (đặc biệt là tập khách hàng hưu trí), gửi tiền kỳ hạn dài cho mục đích bảo quản, cất giữ tài sản, do đó có tính ổn định tương đối cao.
Tỷ lệ tiền gửi có kỳ hạn từ nhóm khách hàng cá nhân ở mức cao này giúp BAB đảm bảo đệm vốn, đảm bảo phục vụ cho hoạt động cho vay của Ngân hàng, giảm thiểu mức độ rủi ro, giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn vốn bán buôn.
Bên cạnh đó, mức độ ổn định trong hoạt động kinh doanh của BAB sẽ tiếp tục được hưởng lợi từ việc duy trì nhất quán chính sách cho vay hướng đến nhóm ngành thiết yếu và ít nhạy cảm hơn trước các biến động kinh tế, cùng với chiến lược mở rộng tập khách hàng trong trung hạn.
Tập trung cho vay nhóm ngành nông- lâm nghiệp, chế biến chế tạo
Về hoạt động cho vay, Ngân hàng tập trung tỉ trọng cho vay lớn vào các nhóm ngành nông- lâm nghiệp và ngành chế biến chế tạo, chiếm hơn 50% tổng dư nợ trong giai đoạn 5 năm gần đây. FiinRatings đánh giá đây là nhóm ngành có tính chất rủi ro thấp hơn, và ít nhạy cảm hơn trước các biến động vĩ mô so với các nhóm ngành thâm dụng vốn khác như bất động sản hay xây dựng, là những nhóm ngành có nhiều diễn biến không thuận lợi trong giai đoạn 2022-2023 vừa qua.
Đối với định hướng tín dụng cho giai đoạn 2024-2025, Ban lãnh đạo của Ngân hàng xác định tiếp tục tập trung cho vay các lĩnh vực công nghệ cao, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và an sinh xã hội, hạn chế cho vay các lĩnh vực bất động sản, chứng khoán. FiinRatings đánh giá chiến lược này, cùng với sự hồi phục trong hoạt động xuất nhập khẩu, sẽ tiếp tục là động lực hỗ trợ việc tăng trưởng cho Ngân hàng trong giai đoạn tới.
Tuy nhiên, hoạt động cho vay của BAB cũng gặp áp lực cạnh tranh về lãi suất tương đối lớn từ các ngân hàng có lợi thế về chi phí vốn. Việc phải chịu mức chi phí huy động vốn tương đối cao so với mặt bằng các ngân hàng khác do tập trung vào nguồn tiền gửi tiết kiệm trung và dài hạn dẫn đến việc BAB phải duy trì lãi suất cho vay ở mức nhất định để đảm bảo biên lãi ròng, giảm khả năng cạnh tranh trong giai đoạn nhu cầu vay vốn giảm mạnh như trong năm 2023, với mức tăng trưởng tín dụng của BAB chỉ đạt 6,1%, thấp hơn so với tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống ở mức 13,7%. Bên cạnh đó, mức độ đa dạng hóa kinh doanh của BAB hiện còn khiêm tốn do vẫn phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động cho vay và tỷ trọng đóng góp của thu nhập ngoài lãi trên tổng thu nhập hoạt động của Ngân hàng hiện đang ở mức thấp hơn so với trung bình ngành. Tỷ trọng thu nhập từ hoạt động cho vay trong tổng thu nhập hoạt động luôn ở mức trên 90% trong 5 năm gần nhất 2018-2023.
Ngoài ra, BAB cũng chưa sở hữu các công ty con nằm trong các lĩnh vực khác như chứng khoán, bảo hiểm, quản lý tài sản hay tư vấn như một số ngân hàng khác. Trong giai đoạn 2024-2025 sắp tới, Ngân hàng cũng chưa có kế hoạch mở rộng danh mục đầu tư và hệ thống dịch vụ một cách đáng kể so với mô hình hoạt động hiện tại.
Cơ cấu vốn và Khả năng sinh lời của BAB ở mức ‘Trung bình’ phản ánh đánh giá của FiinRatings về bộ đệm vốn thấp hơn trong nhiều năm so với hầu hết các ngân hàng trong hệ thống và khả năng sinh lời thấp hơn so với trung bình ngành đến từ chi phí huy động cao. Trong giai đoạn 3 năm 2021-2023, mặc dù luôn nằm trên ngưỡng yêu cầu tối thiểu là 8% của Ngân hàng nhà nước, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của BAB luôn nằm trong top 5 ngân hàng có tỷ lệ CAR thấp nhất hệ thống. Mặc dù tỷ lệ Vốn cấp 1/Tổng tài sản của BAB bám sát trung bình ngành một cách ổn định trong suốt giai đoạn từ 2015-2022, nhưng riêng trong năm 2023, do lượng tiền gửi tăng đột biến ở mức 22%, lớn hơn đáng kể so với tốc độ tăng trưởng lợi nhuận và huy động vốn điều lệ, tỷ lệ Vốn cấp 1/Tổng tài sản Tỷ lệ an toàn vốn tổi thiểu (“CAR”) của BAB giảm từ 7,6% về 7,1%.
FiinRatings đánh giá khả năng sinh lời của Ngân hàng ở mức khiêm tốn hơn so với mặt bằng chung của ngành, do biên lãi ròng tương đối thấp đến từ chi phí huy động cao, và hiệu quả hoạt động chưa tối ưu được chi phí. Nguồn vốn huy động của BAB tập trung vào tiền gửi có kỳ hạn, đặc biệt là kỳ hạn trên 1 năm. Trong đó, nguồn tiền gửi có kỳ hạn là nguồn chủ yếu với tỷ lệ 95% tổng tiền gửi, tập trung 45% ở kỳ hạn trên 1 năm. So với mặt bằng các ngân hàng, BAB là một trong những ngân hàng đưa ra mức lãi suất tương đối cao để đáp ứng chiến lược của Ngân hàng trong việc thu hút nguồn tiền gửi tiết kiệm trung và dài hạn, ưu tiên các mục tiêu về ổn định nguồn vốn và chất lượng thanh khoản dẫn đến chi phí huy động luôn ở mức cao hơn đáng kể so với trung bình ngành. Trong khi việc cho vay các ngành nông nghiệp công nghệ cao, phục vụ an sinh xã hội là các ngành được ưu đãi về lãi suất, chi phí huy động năm 2023 của BAB ở ngưỡng 8,8% cao hơn trung bình ngành ở ngưỡng 6,1%. Trong ngắn hạn, khả năng sinh lời của BAB vẫn sẽ tiếp tục đối mặt với những thách thức liên quan đến khả năng hấp thụ vốn chưa hoàn toàn phục hồi của nền kinh tế. Trong trung và dài hạn, kỳ vọng biên lợi nhuận của Ngân hàng sẽ được cải thiện nhờ vào việc Ngân hàng tận dụng được nguồn vốn dài hạn với chi phí vốn tốt trong môi trường lãi suất thấp, và khi nền kinh tế vượt qua giai đoạn khó khăn với nhu cầu vay vốn được cải thiện.