Nhà thơ duy nhất của phong trào Thơ mới được phong NSND: ‘Ông hoàng thơ ca’ nổi tiếng, vợ và con cũng là NSND đình đám
(Thị trường tài chính) -Không chỉ là nhà thơ, ông còn là nhà văn, nhà báo, nhà viết kịch nổi tiếng trong lịch sử thơ ca Việt Nam.
Phong trào Thơ mới để lại dấu ấn lớn, mang đến cái nhìn mới mẻ, đầy sức sống trong lịch sử văn học Việt Nam. Những cái tên nổi bật của phong trào này có thể kể đến như Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận...
Đặc biệt, Thế Lữ là người thu hút sự chú ý hơn cả khi được mệnh danh là "ông hoàng thơ ca" hay "người khai sáng phong trào Thơ mới"...

"Hiện tượng" nổi bật trong lịch sử văn học Việt Nam
Thế Lữ tên thật là Nguyễn Thứ Lễ, sinh năm 1907 tại Thái Hà, Hà Nội. Năm 11 tuổi, ông về Hải Phòng để học trung học. Đến năm 23 tuổi, ông thi vào trường mỹ thuật nhưng bỏ dở ngay trong năm học đầu tiên.
Vào năm 1932, Thế Lữ gia nhập nhóm Tự Lực văn đoàn và trở thành cây bút chủ chốt của hai tờ báo Phong Hóa và Ngày Nay.
Với tài năng của mình, chỉ trong vòng 7 năm, Thế Lữ đã cho ra đời 2 tập thơ và trở thành "hiện tượng" trong lịch sử thơ ca Việt Nam. 30 tuổi, Thế Lữ đã là một trong những nhà thơ nổi bật và là nhà văn với phong cách viết riêng biệt.
Thơ của ông phá vỡ những khuôn mẫu tư tưởng phong kiến, mang đến một luồng gió mới cho đời sống nội tâm của thế hệ trẻ, đồng thời thể hiện rõ nét bản lĩnh cá nhân trong bối cảnh xã hội đang thay đổi.
Đặc biệt, ông đã đóng góp quan trọng vào việc hiện đại hóa thơ ca Việt Nam, mở ra khả năng biểu đạt phong phú và sinh động cho thi ca dân tộc. Trong giai đoạn đầu của phong trào Thơ Mới (1932-1935), Thế Lữ được vinh danh là “ông hoàng thơ ca”. Tác phẩm nổi bật nhất của ông là Nhớ rừng, đã trở thành một tác phẩm kinh điển và được đưa vào chương trình giảng dạy trong sách giáo khoa phổ thông.

Không chỉ là người tiên phong trong phong trào Thơ mới, Thế Lữ còn là một người say mê tìm kiếm cái đẹp và sống với đam mê qua văn xuôi. Ông gia nhập nhóm Tự Lực văn đoàn ngay từ những ngày đầu thành lập (1934). Tài năng của ông sớm được khẳng định qua các truyện trinh thám, truyện khoa học viễn tưởng, kinh dị bí ẩn như Vàng và máu (1934), Bên đường Thiên Lôi (1936), Gói thuốc lá (1940), Gió trăng ngàn (1941), Trại Bồ Tùng Linh (1941)...
Tuy nhiên, sau đó, Thế Lữ nhận ra rằng thơ ca, truyện ngắn hay báo chí vẫn chưa đủ để ông diễn đạt được vẻ đẹp mà mình tìm kiếm. Khi phong trào Thơ mới trở nên bế tắc, các thể loại truyện trinh thám và ngắn hạn bắt đầu dần cũ kỹ, báo chí không còn làm thỏa mãn khát khao sáng tạo, ông tìm đến với sân khấu kịch.
Ông đam mê khám phá, dùng tất cả các trải nghiệm của mình để làm kịch. Với tất cả nhiệt huyết, Thế Lữ cũng là một trong những người đầu tiên đưa kịch nói lên sân khấu Việt Nam và là người duy nhất biến nó từ nghiệp dư thành một nghệ thuật chuyên nghiệp.
Ông được công nhận là đạo diễn kịch nói đầu tiên ở nước ta, sáng lập ba ban kịch chuyên nghiệp là Ban kịch Tinh Hoa (1938), Ban kịch Thế Lữ (1941) và Ban kịch Anh Vũ (1943). Với những đóng góp này, ông xứng đáng được coi là người đặt nền móng cho nền kịch nói Việt Nam hiện đại.
Sau Cách mạng Tháng Tám, Thế Lữ nhiệt tình đón nhận những thay đổi của thời cuộc. Trong suốt những năm kháng chiến chống Pháp, ông cùng đoàn kịch của mình lên chiến khu Việt Bắc, tham gia phục vụ cho công cuộc kháng chiến.
Năm 1957, khi Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam được thành lập, Thế Lữ được bầu làm Chủ tịch và giữ chức vụ này đến năm 1977. Những đóng góp của ông đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền sân khấu dân tộc hiện đại.
Với hơn 50 năm gắn bó với sân khấu, Thế Lữ đã thủ vai trong hàng trăm vở kịch, đạo diễn nhiều tác phẩm lớn, và có những đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của nghệ thuật biểu diễn ở Việt Nam.

Gia đình có truyền thống nghệ thuật
Không chỉ được ngưỡng mộ vì tài năng, cuộc đời và gia đình của Thế Lữ cũng khiến nhiều người phải trầm trồ. Thế Lữ kết hôn lần đầu khi mới 17 tuổi với Nguyễn Thị Khương, hơn ông 2 tuổi. Cặp đôi có 4 người con, 3 trai và 1 gái, lần lượt tên là Nghi, Tâm, Học và Tùng. Năm 1954, vợ và 3 người con của ông di cư vào miền Nam, đến năm 1979, gia đình mới được đoàn tụ.

Có bố là nhà thơ, nhà văn... xuất sắc, con trai cả của Thế Lữ - Nguyễn Đình Nghi, cũng là cái tên nổi bật. Nguyễn Đình Nghi (1928-2001), từ nhỏ đã được bố truyền nghề sân khấu và trở thành đạo diễn nổi tiếng, được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân vào năm 1988. Con dâu cả của Thế Lữ, vợ của Nguyễn Đình Nghi là Nghệ sĩ Ưu tú Mỹ Dung, cũng là một diễn viên kịch nói của Nhà hát Kịch Việt Nam.
Người vợ thứ hai của Thế Lữ là nghệ sĩ Song Kim. Hai người gặp nhau trong buổi công diễn kịch. Thế Lữ đã mời Song Kim tham gia vở kịch do nhóm mình dàn dựng. Vài năm sau, họ đến với nhau.
Với sự dẫn dắt, hỗ trợ của chồng, Song Kim trở thành một trong những diễn viên tiêu biểu của sân khấu kịch nói Việt Nam thời kỳ đầu. Vợ chồng bà cùng được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân ngay trong đợt đầu tiên vào năm 1984.
Thế Lữ qua đời vào năm 1989, để lại niềm tiếc thương sâu sắc trong lòng giới văn nghệ sĩ, trí thức và công chúng yêu mến ông. Không chỉ là Nhà thơ duy nhất phong trào Thơ Mới được phong NSND, ông còn được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật vào năm 2000.





