Gia đình hiếm có tại Việt Nam: 2 anh em ruột được phong hàm tướng, 6 người là liệt sĩ và 2 người được tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng
(Thị trường tài chính) - Gia đình có 9 người con thì có đến 6 liệt sĩ đã anh dũng ngã xuống trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, 3 người còn lại là sĩ quan cao cấp của quân đội.
Vị tướng tài ba của quân đội
Đồng chí Đoàn Khuê (bí danh Võ Tiến Trình), sinh ngày 29/10/1923 tại Quảng Trị, trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước. Từ khi còn rất trẻ, ông đã sớm thể hiện bản lĩnh kiên cường, tinh thần cách mạng bất khuất, để rồi sau này trở thành một trong những vị tướng tài ba, nhà lãnh đạo quân sự – chính trị xuất sắc của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Năm 1939, khi mới 16 tuổi, Đoàn Khuê rời gia đình, tham gia phong trào thanh niên phản đế và sớm được tín nhiệm giữ chức Bí thư thanh niên phản đế phủ Triệu Phong.
Một năm sau, ông bị thực dân Pháp bắt giam và suốt 5 năm bị đày ải qua nhiều nhà tù khắc nghiệt từ Quảng Trị đến Buôn Ma Thuột. Dù phải chịu đựng những trận tra tấn tàn bạo, ông vẫn giữ vững ý chí chiến đấu, được tổ chức tin tưởng giao làm thành viên Ủy ban vận động cách mạng trong tù.

Tháng 5/1945, sau khi được trả tự do, ông tiếp tục hoạt động cách mạng, được phân công xây dựng cơ sở ở Quảng Bình, rồi nhanh chóng được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Khi Cách mạng Tháng Tám nổ ra, ông giữ chức Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh tỉnh Quảng Bình, góp phần quan trọng vào việc giành chính quyền tại địa phương.
Sau Cách mạng Tháng Tám, Đoàn Khuê được điều vào chiến trường Khu 5 – một trong những chiến trường ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Pháp. Ông lần lượt đảm nhận các chức vụ từ Chính trị viên, Bí thư Đảng ủy các trung đoàn 69, 73, 78, 126, 84 đến Chính ủy Trung đoàn 108 và Phó Chính ủy Sư đoàn 305 – sư đoàn chủ lực đầu tiên ở Nam Trung Bộ.
Sau Hiệp định Genève năm 1954, ông tiếp tục được giao nhiều trọng trách như Phó Chính ủy Sư đoàn 675, Chính ủy Sư đoàn 351, rồi Chính ủy Lữ đoàn 270 khu vực giới tuyến quân sự, Ủy viên Đảng ủy Quân khu 4. Đến năm 1960, ông trở thành Phó Chính ủy Quân khu 4, Ủy viên Đảng ủy Quân khu.

Đồng chí Đoàn Khuê (giữa) làm việc với Ban chỉ huy Tiểu đoàn 2 Gia Lai-Kon Tum ở Đồn 21 dịp Tết Mậu Ngọ 1978. Ảnh tư liệu
Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ bước vào giai đoạn cam go, năm 1963, Đoàn Khuê được điều trở lại Khu 5 với cương vị Ủy viên Thường vụ Khu ủy, Phó Chính ủy Quân khu, Phó Bí thư Đảng ủy Quân khu 5. Sau ngày đất nước thống nhất, ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IV), giữ chức Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 5, Bí thư Đảng ủy Quân khu 5.
Từ năm 1983 đến năm 1986, với kinh nghiệm dày dạn trên chiến trường, ông được giao trọng trách Phó Tư lệnh – Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh 719 và Phó Trưởng đoàn chuyên gia giúp nước bạn Campuchia. Sau đó, ông trở thành Trưởng ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia, Tư lệnh Bộ Tư lệnh 719, góp phần giúp nhân dân Campuchia “hồi sinh đất nước” sau chiến tranh.

Từ năm 1987 đến 1991, Đại tướng Đoàn Khuê giữ chức Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; giai đoạn 1991-1997, ông là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương. Năm 1998, Bộ Chính trị phân công ông phụ trách công tác bảo vệ chính trị nội bộ và làm Trưởng ban Chỉ đạo tổng kết “Đảng lãnh đạo chiến tranh cách mạng”.
Ông từng được phong quân hàm Thiếu tướng (1974), Trung tướng (1980), Thượng tướng (1984) và Đại tướng (1990). Ông là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ khóa IV đến khóa VIII, Ủy viên Bộ Chính trị các khóa VI, VII, VIII, và là đại biểu Quốc hội các khóa VII, VIII, IX, X.
Ở cương vị lãnh đạo Bộ Quốc phòng trong thời kỳ đất nước đổi mới, Đại tướng Đoàn Khuê cùng các đồng chí trong Quân ủy Trung ương đề xuất nhiều chủ trương chiến lược, góp phần xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại”. Ông đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng Đảng trong Quân đội, tổng kết thực tiễn chiến tranh, rút ra nhiều bài học quý giá phục vụ sự nghiệp quốc phòng toàn dân.
Không chỉ là người chỉ huy tài năng, Đại tướng Đoàn Khuê còn được đồng chí, đồng đội kính trọng bởi phong cách làm việc dân chủ, sâu sát cơ sở, luôn quan tâm, dìu dắt cán bộ cấp dưới. Hình ảnh người tướng giản dị, mẫu mực, tận tụy vì nhiệm vụ chung đã trở thành biểu tượng cao đẹp trong lòng cán bộ, chiến sĩ toàn quân.

Thiếu tướng Đoàn Khuê, Phó Chính ủy Quân khu 5 nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 31 trước khi vào trận Nông Sơn, tháng 6/1974. Ảnh tư liệu
Với những cống hiến to lớn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đại tướng Đoàn Khuê được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Hồ Chí Minh, 2 Huân chương Quân công hạng Nhất, 2 Huân chương Chiến công hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng. Đặc biệt, năm 2007, ông được truy tặng Huân chương Sao Vàng – phần thưởng cao quý nhất của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Xuất thân từ gia đình đáng kính ở Quảng Trị
Sinh thời, Đại tướng Đoàn Khuê luôn được đồng chí, đồng đội và nhân dân dành cho niềm kính trọng đặc biệt, không chỉ bởi tài năng, đức độ của một vị tướng lĩnh kiệt xuất mà còn bởi truyền thống cách mạng kiên trung, sự hy sinh thầm lặng của cả gia đình ông.
Gia đình đồng chí là một biểu tượng hiếm có trong lịch sử cách mạng Việt Nam, với 2 vị tướng, 2 Bà mẹ Việt Nam anh hùng và 6 liệt sĩ đã anh dũng ngã xuống trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Thân sinh của Đại tướng là cụ Đoàn Cầu, một người yêu nước nồng nàn. Cụ có 2 người vợ là bà Nguyễn Thị Dương và bà Nguyễn Thị Lạnh, đều là những người phụ nữ giàu lòng yêu nước, kiên trung với cách mạng.
Ngay từ đầu thập niên 1920, cụ Đoàn Cầu đã tham gia hoạt động bí mật, lấy chính ngôi nhà của mình làm nơi hội họp của Xứ ủy Trung Kỳ, góp phần duy trì ngọn lửa đấu tranh trong thời kỳ đầy gian nguy.

Đồng chí Đoàn Khuê (khi đó là Phó Chính ủy Quân khu 5) ở chiến trường ra gặp gia đình tại số nhà 36, phố Lý Nam Đế, Hà Nội, năm 1969. Ảnh tư liệu
Tiếp nối truyền thống của cha mẹ, cả 9 người con trong gia đình cụ đều sớm giác ngộ lý tưởng cách mạng, trở thành những “hạt giống đỏ” trong phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc. Trong đó, 3 người con trưởng thành trong quân ngũ gồm Đại tướng Đoàn Khuê, Trung tướng Đoàn Chương – nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược Quân sự và Đại tá Đoàn Thúy. 6 anh chị em còn lại kiên cường chiến đấu, hy sinh anh dũng ngay tại quê hương Triệu Phong, Quảng Trị.
Những năm tháng kháng chiến chống Mỹ ác liệt đã ghi dấu bao mất mát, đau thương của gia đình. Năm 1964, người con cả bám trụ quê nhà là liệt sĩ Đoàn Đình hy sinh khi theo đường biển chở thương binh ra miền Bắc, rồi chở súng đạn quay lại chiến trường và bị địch bắn chìm thuyền tại Cửa Việt.
Một năm sau, năm 1965, liệt sĩ Đoàn Giao bị địch lần theo dấu chân in trên cát, phát hiện hầm trú ẩn và anh dũng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.
Đến năm 1967, liệt sĩ Đoàn Ngọc Anh trên đường rút quân bị địch phục kích, pháo bắn đuổi liên hồi. Không vượt được qua sông Vân Tường, anh đã hy sinh trong tư thế người chiến sĩ kiên cường.
Trong những ngày chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, liệt sĩ Đoàn Văn Hà – chiến sĩ đặc công tham gia trận đánh đồn Cổ Lũy và anh dũng ngã xuống dưới làn hỏa lực dữ dội của kẻ thù.
Sau Tết Mậu Thân, khi Mỹ - Ngụy đẩy mạnh chiến dịch bình định nông thôn, liệt sĩ Đoàn Cư vẫn kiên quyết bám dân, chiến đấu liên tục nhiều ngày và hy sinh khi bị thương nặng.
Cũng trong năm 1968, người em út là liệt sĩ Đoàn Thị Tùng – Hội trưởng Hội Phụ nữ huyện Triệu Phong (cũ) – bị phục kích khi đang hoạt động và đã chiến đấu đến cùng, hy sinh giữa vòng vây của quân địch.
Chỉ trong vòng chưa đầy 5 năm, từ 1964 đến 1968, 6 người con trong gia đình Đại tướng Đoàn Khuê đã lần lượt ngã xuống, hiến dâng trọn đời mình cho độc lập, tự do của Tổ quốc. Mỗi người một vị trí, một chiến trường, nhưng tất cả đều chung một tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

Ông Lê Xuân Lộc – Bí thư Đảng ủy xã Triệu Lăng cũ từng chia sẻ năm 2023: “Một gia đình có 9 người con thì có đến 6 liệt sĩ và 3 người là sĩ quan cao cấp trong quân đội; 2 người mẹ được phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Nếu tính cả con dâu, rể, cháu nội thì gia đình Đại tướng Đoàn Khuê có 15 người tham gia cống hiến, phục vụ trong các lực lượng vũ trang nhân dân. Đây thực sự là gia đình cách mạng mẫu mực, tiêu biểu, hiếm có”.
Trải qua 2 cuộc kháng chiến đầy gian khổ, dòng họ Đoàn ở vùng đất Triệu Phong xưa đã trở thành biểu tượng sáng ngời về tinh thần yêu nước, ý chí kiên trung và lòng thủy chung son sắt với Đảng, với nhân dân. Tên tuổi của Đại tướng Đoàn Khuê cùng các anh chị em trong gia đình không chỉ được khắc ghi trong lịch sử quê hương Quảng Trị mà còn là niềm tự hào của cả dân tộc.
Bài viết có sử dụng thông tin tham khảo từ các nguồn:
- Vị tướng có 6 người em ruột đều là liệt sĩ - Báo Quân khu 4
- Đại tướng Đoàn Khuê - Một chiến sĩ cộng sản kiên cường, nhà lãnh đạo chính trị, quân sự xuất sắc - Báo Quân khu 4
- Đại tướng Đoàn Khuê - Người cộng sản kiên trung, nhà lãnh đạo chính trị, quân sự xuất sắc, người con ưu tú của quê hương Quảng Trị anh hùng - Tạp chí Cộng sản
- Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Đại tướng Đoàn Khuê, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (29/10/1923 - 29/10/2023) - Tạp chí Tổ chức Nhà nước và Lao động





