Xanh hóa kinh tế cần khoản đầu tư khổng lồ
(Thị trường tài chính) - Với yêu cầu phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường, Việt Nam đã tích cực tham các cam kết quốc tế về giảm phát thải khí nhà kính, chống biến đổi khí hậu. Để thực hiện các cam kết này, cần một động lực tài chính, tín dụng bền vững và liên tục.
Đó là quan điểm được các nhà quản lý, chuyên gia, doanh nghiệp… đưa ra tại hội thảo “Dẫn nguồn vốn lớn cho tín dụng xanh” do Báo Đầu tư tổ chức, sáng 4/12.
Nhu cầu vốn lớn
Phát biểu tại hội thảo, Tổng biên tập Báo Đầu tư Lê Trọng Minh nêu rõ, phát triển bền vững đang ngày càng trở thành xu thế bao trùm trên thế giới và kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh là mô hình được nhiều quốc gia lựa chọn. Với Việt Nam, tăng trưởng xanh và phát triển bền vững có mối quan hệ hữu cơ, mật thiết với nhau, vừa là quan điểm, vừa là mục tiêu xuyên suốt trong các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước.
Theo ông Lê Trọng Minh, hành trình hiện thực hóa mục tiêu xanh của Việt Nam không chỉ đòi hỏi việc hoàn thiện cơ chế chính sách, nâng cao nhận thức, xây dựng hệ thống giám sát đủ năng lực thực thi cam kết mà còn cần tới một nguồn lực khổng lồ.
Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới (năm 2022), Việt Nam cần đầu tư thêm khoảng 368 tỷ USD đến năm 2040, tương đương 6,8% GDP/năm để thích ứng với biến đổi khí hậu. Trong đó, đầu tư vào khả năng phục hồi khoảng 254 tỷ USD và 114 tỷ USD cho hành trình khử carbon theo cam kết với cộng đồng quốc tế.
Chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng Phát triển châu Á Nguyễn Bá Hùng cho biết, Việt Nam là một quốc gia đang phát triển với tốc độ đô thị hóa nhanh chóng, nhu cầu sử dụng năng lượng ngày càng tăng, đồng thời phải đối mặt với những áp lực lớn từ thiên tai, ô nhiễm môi trường (không khí, nguồn nước) và biến đổi khí hậu. Do đó, Việt Nam cần lượng vốn lớn đầu tư vào các lĩnh vực xanh, như: năng lượng tái tạo, chuyển đổi năng lượng, xử lý chất thải… Ước tính gần đây của IFC cho thấy, đầu tư cho các hoạt động liên quan đến biến đổi khí hậu ở Việt Nam có thể lên tới 757 tỷ USD vào năm 2030. Trong đó, nguồn vốn tín dụng xanh từ các tổ chức quốc tế đóng vai trò tạo đà cho phát triển thị trường.
Còn theo Phó Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, Ngân hàng Nhà nước Phạm Thanh Tùng, giai đoạn 2017-2022, dư nợ cấp tín dụng của hệ thống đối với các lĩnh vực xanh có mức tăng trưởng dư nợ bình quân đạt hơn 23%/năm. Đến 30/9/2023, dư nợ cấp tín dụng xanh đạt hơn 564 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng khoảng 4,4% tổng dư nợ toàn nền kinh tế. Trong số 12 lĩnh vực xanh Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn các tổ chức tín dụng cho vay, dư nợ tập trung chủ yếu vào các ngành năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (chiếm gần 45%) và nông nghiệp xanh (hơn 30%). Các tổ chức tín dụng đã tăng cường đánh giá rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng với dư nợ được đánh giá rủi ro môi trường và xã hội đạt gần hơn 2,67 triệu tỷ đồng, chiếm hơn 21%/tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế.
Cần hoàn thiện hành lang pháp lý
Chia sẻ về nhu cầu và khả năng đáp ứng vốn cho doanh nghiệp Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) Phùng Thị Bình cho biết, từ nguồn vốn tài trợ của Agribank, nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao đã và đang hình thành trên khắp mọi miền của đất nước. Đến nay, doanh số cho vay nông nghiệp sạch, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của Agribank đạt trên 30.000 tỷ đồng, chiếm 50% tổng nguồn vốn đầu tư cho lĩnh vực này, dư nợ đạt 2.000 tỷ đồng với hơn 300 khách hàng (trong đó, hơn 98% khách hàng là cá nhân, chủ trang trại, tổ hợp tác...).
Tuy nhiên, theo bà Phùng Thị Bình, hiện nay pháp luật hiện hành chưa có quy định đầy đủ về các sản phẩm tín dụng phục vụ tăng trưởng xanh. Tăng trưởng tín dụng xanh mới chỉ dừng lại ở các giải pháp khuyến nghị, chủ động xây dựng các chương trình, chính sách tín dụng xanh để nâng dần tỷ trọng tín dụng xanh trong cơ cấu danh mục tín dụng của các tổ chức tín dụng. Việc chưa có các quy định về sản phẩm tín dụng xanh là một rào cản đối với các tổ chức, cá nhân có nhu cầu vốn cho tăng trưởng xanh. Mặt khác, cơ chế ưu đãi và khuyến khích của Chính phủ, Bộ ngành đối với tín dụng xanh còn chưa rõ ràng, chưa tách bạch giữa tín dụng xanh và tín dụng thương mại.
Trên cơ sở đó, đại diện Agribank kiến nghị, các cơ quan liên quan cần rà soát, hoàn thiện hành lang pháp lý, sớm ban hành danh mục phân loại xanh làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng có căn cứ thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh. Đồng thời, xây dựng lộ trình thực hiện các cơ chế chính sách hỗ trợ các ngành xanh của từng ngành, lĩnh vực một cách đồng bộ nhằm thu hút và phát huy hiệu quả của nguồn vốn tín dụng xanh, phát triển thị trường tín chỉ cacbon.
Với vai trò nhiệm vụ chức năng của ngành ngân hàng, đại diện Ngân hàng Nhà nước Phạm Thanh Tùng cho rằng, để các cơ chế, chính sách của ngành ngân hàng thực sự phát huy hiệu quả nhằm mở rộng và khơi thông nguồn vốn tín dụng cho các lĩnh vực xanh, bên cạnh việc rà soát, tham mưu hoàn thiện hành lang pháp lý, các doanh nghiệp cũng cần thực hiện dự án xanh. Đồng thời phối hợp cung cấp đầy đủ các thông tin về môi trường liên quan để được tổ chức tín dụng thẩm định cho vay thực hiện dự án, kiểm soát chất lượng khoản vay; khách hàng cần nâng cao trách nhiệm ý thức bảo vệ môi trường khi thực hiện dự án.
Tại Hội nghị COP26 vào tháng 11/2021, Việt Nam cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Trong quãng thời gian 2 năm từ COP26 đến COP28 diễn ra tại Dubai tháng 11/2023, Việt Nam đã lên kế hoạch để thực hiện các cam kết và một trong những nhiệm vụ quan trọng là huy động nguồn lực tài chính cho quá trình chuyển đổi.