Lấp lỗ hổng quản trị hệ thống ngân hàng
Thitruongtaichinh - Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) Quốc hội vừa thông qua được đánh giá là đã đưa ra được các giải pháp, van khóa để bảo đảm những điểm hạn chế, tồn tại của hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) thời gian qua.
Theo các chuyên gia, những quy định mới trong Luật các TCTD (sửa đổi) liên quan đến sở hữu chéo, chi phối TCTD; hoạt động kinh doanh đại lý bảo hiểm; can thiệp sớm các TCTD yếu kém và xử lý tài sản bảo đảm… nhằm hạn chế tình trạng thao túng, tiêu cực, “sân sau’’, kiểm soát rủi ro, từ đó bảo vệ, bảo đảm quyền lợi chính đáng của các chủ thể khác liên quan đến lĩnh vực này.
Theo thống kê của MBS Research, hiện tại có 7 ngân hàng niêm yết có cổ đông là tổ chức sở hữu trên 10% vốn điều lệ (đã loại trừ các TCTD có cổ đông chiến lược là nhà đầu tư nước ngoài). Luật Các TCTD sẽ hạn chế tình trạng sở hữu chéo và giúp nhận biết các rủi ro lớn từ các DN sân sau như trường hợp của SCB và Vạn Thịnh Phát.
Các quy định cụ thể liên quan đến tỷ lệ sở hữu của cá nhân, tổ chức tại các TCTD, quy định về bán bảo hiểm qua ngân hàng… tại Luật giúp tăng tính đại chúng của tổ chức tín dụng, tăng minh bạch thông tin và giám sát của đại chúng; đồng thời, tách bạch giữa hoạt động quản trị với hoạt động điều hành, đáp ứng rất tốt nguyên tắc quản trị minh bạch trong tổ chức kinh doanh mà các định chế tài chính quốc tế khuyến cáo.
Trong ngắn hạn, một số TCTD chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng và phải điều chỉnh lại hoạt động quản trị, điều hành để đáp ứng các điều kiện quy định tại Luật. Đó là các ngân hàng có cổ đông là tổ chức sở hữu trên 10% vốn điều lệ, hiện tại theo thống kê đang có 7 ngân hàng trong diện này. Hay nhóm các ngân hàng thương mại có tỷ trọng thu nhập bancassurance trong tổng thu nhập ngoài lãi cao như VIB, ACB… cũng ít nhiều bị ảnh hưởng.
Theo Luật sửa đổi, hoạt động kinh doanh đại lý bảo hiểm sẽ được quản lý chặt chẽ hơn, khiến tốc độ tăng trưởng thu nhập từ bancassurance của các ngân hàng chậm lại so với giai đoạn 2019 - 2021.
Mặt khác, giới hạn tín dụng, Luật TCTD (sửa đổi) quy định các ngân hàng có thể cho vay tối đa 10% tổng vốn chủ sở hữu ngân hàng đối với một khách hàng (giảm từ mức 15% trước đây) và 15% tổng vốn chủ sở hữu của ngân hàng đối với một nhóm khách hàng và người có liên quan (giảm từ mức 25% trước đây). Việc cho vay vượt quá mức này phải được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Việc giảm tỷ lệ cho vay đối với một khách hàng và người có liên quan nhằm giúp đa dạng hóa danh mục tín dụng, giảm thiểu rủi ro đạo đức từ phía khách hàng và rủi ro quá hạn cho TCTD, tuy nhiên cũng sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch cho vay của một số ngân hàng cũng như tạo thách thức cho các DN trong việc bảo đảm nguồn vốn lớn.
Như vậy, trong ngắn hạn, một số ngân hàng sẽ gặp một số thách thức. Tuy nhiên, về dài hạn, Luật Các TCTD (sửa đổi) có ý nghĩa lớn trong việc quản lý và điều hành hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định, minh bạch và tiệm cận với các quy định quốc tế.
Theo đó, các TCTD yếu kém sẽ được can thiệp sớm, được hỗ trợ bởi một số biện pháp như thay đổi cách tính số dự phòng rủi ro bằng tối đa số chênh lệch thu chi trong năm của TCTD; đồng thời phải thuyết minh chi tiết số dự phòng thực tế và chênh lệch với số tối đa này trong báo cáo tài chính.
Điều này không ảnh hưởng nhiều đến các ngân hàng niêm yết trên sàn hiện tại, tuy nhiên, sẽ giúp các cơ quan quản lý và công chúng sớm nhận ra các rủi ro lớn thông qua báo cáo tài chính được công bố của các TCTD. Động thái này sẽ hỗ trợ ổn định tâm lý thị trường và người gửi tiền trước những lo ngại về rủi ro thanh khoản hệ thống trong tương lai.