Kênh đào hơn trăm tuổi từng là điểm tập kết lớn nhất của quân và dân miền Nam trước khi hành trình ra Bắc
(Thị trường tài chính) -Nơi đây, hàng nghìn chiến sĩ, cán bộ, học sinh và đồng bào đã trải qua 200 ngày đêm đầy cảm xúc.
Kênh Chắc Băng là một con kênh quan trọng ở vùng U Minh Hạ, chạy qua địa phận hai huyện Thới Bình (Cà Mau) và Vĩnh Thuận (Kiên Giang). Với chiều dài hơn 40km, kênh nối liền từ ngã ba sông Trẹm đến đầu vàm Chắc Băng, nơi đổ ra sông Cái Lớn, trở thành tuyến giao thông thủy huyết mạch giữa vùng U Minh Hạ và U Minh Thượng.
Kênh xáng Chắc Băng, đoạn thuộc xã Trí Phải, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. Ảnh: Báo Nhân Dân
Theo Báo Bình Phước, Huỳnh Minh trong cuốn “Bạc Liêu xưa” có viết rằng, Chắc Băng là một con kênh nhỏ, chưa có tên. Trong lúc chạy trốn nghĩa quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh đến ẩn náu ở vùng đất này. Trong lúc lâm bệnh, nghĩ mình không qua khỏi nên ông trăn trối với quan quân rằng: “Cơn bệnh ngặt nghèo này không chữa hết. Chắc trẫm phải băng rồi!”. Về sau, người ta nhớ câu nói “Trẫm chắc băng” nên đặt tên cho con kênh này là Chắc Băng.
Còn theo nhà văn Sơn Nam, địa danh Chắc Băng là do đọc trại từ tiếng Cao Miên “Chap tung”, nghĩa là chim Chằng bè. Cách lý giải này cũng có cơ sở bởi khu vực thuộc xã Vĩnh Phong, Vĩnh Thuận, Vĩnh Bình Nam... huyện Vĩnh Thuận nằm dọc theo kênh Chắc Băng có khá đông bà con Khmer sinh sống.
Các vị cao niên kể lại, Chắc Băng ngày xưa có một sân chim rất lớn, tập trung đủ loại chim cò của vùng U Minh, trong đó chim Chằng bè chiếm số lượng nhiều. Chắc Băng xưa là vùng rừng tràm khá âm u, sản vật vô cùng phong phú. Nơi đây có nhiều sân chim nổi tiếng thời bấy giờ, như Thứ Nhứt, Kinh Dài, Thầy Quơn. Sân chim Chắc Băng có sản lượng khá lớn với các loài đặc trưng như Chằng bè, Già đẩy, Già sói... Chim bầy, chim đàn quần tụ về Chắc Băng hòa âm bằng những tiếng kêu rộn ràng như những bản nhạc rừng.
Hơn trăm năm qua, kênh Chắc Băng không chỉ là tuyến giao thông quan trọng mà còn là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử. Tại ấp Ranh Hạt (xã Vĩnh Thuận, huyện Vĩnh Thuận), gần ranh giới với xã Trí Phải (huyện Thới Bình, Cà Mau), có một Khu lưu niệm khang trang – nơi thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của tỉnh Kiên Giang vào năm 1932, do đồng chí Quản Trọng Linh làm Bí thư.
Nơi thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên của tỉnh Kiên Giang vào năm 1932. Ảnh: Lao động & Công đoàn
Đặc biệt, hơn 70 năm trước, kênh Chắc Băng từng là điểm tập kết lớn nhất của quân và dân miền Nam trước khi hành trình ra Bắc. Đây là nơi chia tay đầy cảm xúc của hàng ngàn chiến sĩ, cán bộ và đồng bào, mang theo khát vọng hòa bình và thống nhất đất nước.
Khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết vào tháng 7/1954, Việt Nam tạm thời chia cắt hai miền với giới tuyến là vĩ tuyến 17. Dù Hiệp định quy định tổ chức tổng tuyển cử sau hai năm để thống nhất đất nước, nhưng những toan tính từ kẻ thù đã khiến người dân miền Nam không dễ tin tưởng. Ngay từ khi hiệp định vừa ráo mực, những toan tính, sự dối trá từ kẻ thù đã lộ rõ.
Quyết định tập kết bộ đội, cán bộ và học sinh miền Nam ra Bắc không chỉ là một cuộc chuyển quân, mà còn là chiến lược dài hơi của cách mạng: chuẩn bị lực lượng, hỗ trợ miền Bắc xây dựng xã hội chủ nghĩa và làm nguồn lực cho ngày trở về giải phóng miền Nam.
Trong suốt 200 ngày đêm ở Chắc Băng, những lời thề sắt son và niềm hy vọng về ngày hội ngộ luôn cháy bỏng. Những con tàu rời bến mang theo bao ánh mắt lưu luyến và những món quà tiễn biệt – đòn bánh tét, khóm chuối – là minh chứng cho tình nghĩa quân dân gắn bó như “cá với nước”.
Ngôi nhà của má Tư Sảnh (Lê Thị Sảnh) - người tặng cây vú sữa cho Bác Hồ. Ảnh: Lao động & Công đoàn
Những ngày tập kết tại Chắc Băng không chỉ mang ý nghĩa quân sự, mà còn trở thành biểu tượng cho lòng tin và sự tận tụy của người dân miền Nam…
Hơn 70 năm đã trôi qua, giờ đây, dòng kênh Chắc Băng đã khoác lên mình diện mạo mới. Bên cạnh những tàu thuyền chở nông, lâm sản, còn có các tàu lớn vận chuyển vật tư xây dựng đường cao tốc. Hai bên bờ kênh, những ngôi nhà khang trang mọc lên, cùng với hệ thống giao thông được kết nối thông suốt.
Sự đổi thay này không chỉ nhờ vào nỗ lực của người dân, mà còn là sự tri ân từ Nhà nước dành cho vùng đất từng chở che, đùm bọc cán bộ và bộ đội cách mạng. Dọc theo kênh Chắc Băng, nhiều công trình được xây dựng như trường học mang tên Võ Văn Kiệt, cầu bắc qua kênh do người dân địa phương đóng góp xây dựng….
Ngoài giá trị lịch sử, kênh Chắc Băng còn đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp hiện đại. Mô hình tôm – lúa phát triển bền vững theo hướng thuận thiên, mang lại lợi ích kinh tế cho người dân và cung cấp nông sản sạch cho thị trường trong và ngoài nước.
Dòng kênh Chắc Băng không chỉ là chứng nhân của lịch sử mà còn là minh chứng cho sức sống mãnh liệt của vùng đất và con người nơi đây. Những ký ức về thời kỳ kháng chiến và tinh thần vượt khó của người dân vẫn được lưu giữ, như một nguồn cảm hứng mạnh mẽ cho các thế hệ mai sau. Chắc Băng, với những dấu ấn lịch sử và sự phát triển bền vững, mãi là biểu tượng của niềm tin, lòng kiên định và sự đoàn kết của người dân vùng U Minh.